ĐÊ BAO Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG KHÔNG SAI LẦM “VĨ ĐẠI” NHƯ TÁC GIẢ ĐẢNG XANH ĐÃ PHÁN!
Posted by News on March 28th, 2014
Sau 20 năm khai thác có hiệu quả, đến 
mùa lũ năm 1995 Đồng Bằng Sông Cửu Long bộc lộ nhiều mâu thuẫn cần phải 
được giảiquyết. Một trong những mâu thuẫn lớn nhất đó là: Với một vùng 
kinh tế nông nghiệp trọng điểm lớn nhất nước, có tiềm năng toàn diện về 
sản xuất nông sản hàng hóa, nhưng trình độ phát triển có nhiều mặt lại 
thua kém các vùng khác trong cả nước. Đặc biệt về cơ sở hạ tầng có liên 
quan đến sản xuất và đời sống của hơn 16 triệu nhân dân trong vùng. Hàng
 năm, một vùng rộng lớn 2 triệu héc ta, chiếm 50% diện tích ở ĐBSCL bị 
ngập lụt do lũ sông Mê Không tràn về. Ở vùng ven biển, những năm mưa ít,
 mặn lấn sâu lên sông Tiền, sông Hậu và sông Vàm Cỏ ảnh hưởng rất xấu 
đến dân sinh ..v..vv
Nhận thức rõ vị trí của ĐBSCL là không 
những phải bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn quyết định đến 
nhịp điệu phát triển của cả đất nước trong tương lai. Thủ tướng chính 
phủ đã ra quyết định 99TTg ngày 9/02/1996 “Về định hướng dài hạn và kế 
hoạch 5 năm 1996 – 2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và 
xây dựng nông thôn vùng ĐBSCL’’.
Với quyết định này, nhà nước đã đầu tư 
vốn ngân sách từ năm 1996 đến năm 2000 là 7100 tỷ, nhân dân sẽ tham gia 
đóng góp là 8400 tỷ. Như vậy tổng vốn đầu tư là 15.500 tỷ. Mục tiêu của 
quyết định 99TTg thật sự to lớn. Trong năm 1996 – 2000 ĐBSCL phải tăng 
thêm ít nhất 2 triệu tấn thóc, đạt sản lượng 15,5 đến 16 triệu tấn/năm. 
Để đạt được mục tiêu đó thủy lợi phải tạo điều kiện để khai hoang, tăng 
vụ thêm 500.000 héc ta gieo trồng lúa đạt 3,6 triệu héc ta lúa. Đồng 
thời nâng cấp bảo đảm điều kiện thâm canh tăng vụ trên diện tích đã gieo
 trồng 2 vụ, phát triển bền vững cây ăn trái và hoa màu… cùng với phát 
triển sản xuất trong 5 năm tập trung giải quyết các yêu cầu cụ thể, tối 
thiểu về đời sống vật chất, văn hóa, ổn định đời sống cho khoảng 10 
triệu nông dân vùng ngập lũ.
Ở những vùng bị ảnh hưởng  của lũ, phải
 nhanh chóng khắc phục những mặt còn yếu kém. Mọi trẻ em đến tuổi đều 
phải được đi học, xóa lớp học ca ba, mọi người dân đều được dùng nước 
sạch, có nhà ở kiên cố..v..v.. Về cơ sở hạ tầng, trong 5 năm phải hình 
thành được những trục chính của hệ thống thủy lợi và giao thông. Định 
hình được hệ thống kênh trục tạo nguồn tiêu thoát úng, lũ, chua, phèn, 
kết hợp với việc hình thành các cụm, tuyến dân cư, đảm bảo mọi sinh hoạt
 không bị gián đoạn vùng ngập lũ. Ở vùng mặn, phải tạo nguồn nước ngọt, 
mở ra địa bàn khai hoang tăng vụ. Về giao thông, trong 5 năm phải hình 
thành được một hệ thống giao thông thủy và bộ tương đối hoàn chỉnh, đồng
 bộ giữa hệ thống giao thông các cấp và hệ thống thủy lợi. Hệ thống giao
 thông đó không được làm cản dòng chảy, làm tăng cao thêm mức lũ…
Những yêu cầu về xây dựng hạ tầng ở 
ĐBSCL trong 5 năm của QĐ 99TTg là “rất cao và rất gay gắt. Nhưng đó là 
cách lựa chọn không cách nào khác…’’ như lời Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong
 hội nghị triển khai quyết định 99TTg ngày 13/03/1996   tại TP.HCM, có 
đầy đủ cán bộ từ cấp huyện  trở lên được triệu tập.
Quyết định 99TTg ra đời rất kịp thời, 
nó thỏa mãn sự khát khao chờ đợi của cán bộ và nhân dân ĐBSCL từ nhiều 
năm. Vì thế, nó được các địa phương ĐBSCL đón nhận một cách nồng nhiệt 
và thực hiện với quyết tâm rất cao. Có thể nói, cả ĐBSCL là một đại công
 trường thủy lợi và giao thông nhằm xoay chuyển hẳn cục diện nông thông 
vùng ĐBSCL; như mục tiêu của QĐ 99TTg.
Trong 5 năm 1996 – 2000 chúng ta đã đầu
 tư ở ĐBSCL 16 ngàn tỷ đồng, chiếm 17,5% tổng vốn đầu tư của cả nước, 
tăng 1,7 lần so với thời kỳ 1991 – 1995. 105 công trình thủy lợi đã được
 khởi công, trong đó có công trình đã hoàn thành. Quy hoạch kiểm soát lũ
 ABSCL được thủ tướng chính phủ phê duyệt đã nêu những định hướng đúng 
đắn. Hệ thống cầu cống kênh chuyển nước và thoát lũ nhanh đã phát huy 
hiệu quả rõ rệt ở vùng ngập lũ Tứ Giác Long Xuyên và bước đầu vừa làm 
vừa thăm dò vùng Đồng Tháp Mười. Ở vùng ngập lũ sâu, hệ thống bờ bao 
lửng là một sáng tạo của nhân dân và chính quyền các địa phương. Bờ bao 
có nhiệm vụ ngăn lũ sớm, bảo vệ thu hoạch lúa hè thu, bơm tát khi lũ rút
 muộn để xuống giống vụ Đông Xuân tiếp theo đảm bảo thời vụ. Bờ bao lửng
 có khả năng nhận lũ và thoát lũ một cách chủ động và không làm cản trở 
dòng chảy, đồng thời kết hợp bờ bao làm đường giao thông nông thôn. Đã 
có khoảng 20 ngàn km bờ bao, riêng tỉnh An Giang có 4200 km, Đồng Tháp 
4000km, Tiền Giang 3200km …
Trái ngược với vùng Tứ Giác Long Xuyên 
và ĐTM thừa nước trong mùa lũ, cả một vùng ven biển nhiều năm của ĐBSCL 
là Trà Vinh, Sóc Trăng và Bán Đảo Cà Mau rộng lớn lại khát bỏng trong 
mùa khô. Các chương trình ngọt hóa của quyết định  99 TTg như chương 
trình Nam Măng Thít, chương trình Quản Lộ – Phụng Hiệp đã làm nên cuộc 
đổi đời cho các vùng nổi tiếng khắc nhiệt này. Hàng trăm ngàn héc ta đất
 nhiễm mặn, khô nẻ, chỉ làm được 1 vụ lúa/ năm, năng xuất thấp, dân tình
 nghèo đói, xác xơ… ở các huyện Mỹ xuyên, Vĩnh Lợi, Hồng Dân… nay đã làm
 được lúa 2 – 3 vụ, tôm cá đầy chợ, trẻ em, phụ nữa có nước ngọt trong 
sinh hoạt, người bệnh có thuốc uống khi đau ốm….
Về giao thông vận tải, sau 5 năm đã 
hình thành nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy huyết 
mạch nối liền các đô thị, các tỉnh và biên vùng. Trong đó phải kể đến 
công trình nâng cấp và hoàn thành 5 cầu trên quốc lộ 1A, nâng cấp và 
hoàn thành 6 cầu thoát lũ trên quốc lộ 80 địa phận Kiên Giang, hoàn 
thành cơ bản nền đường đến cao trình vượt lũ và 3 cầu trên quốc lộ 62 
trong vùng Đồng Tháp Mười…
Về đường thủy, đã đầu tư nâng cấp hai 
tuyến đường thủy quan trọng gồm tuyến đường từ TP.HCM và Cà Mau và 
TP.HCM đi Kiên Lương, nâng cấp cảng Cần Thơ, Về giao thông, còn phải kể 
đến những cây cầu lớn đã được hoàn thành như cây cầu Mỹ Thuận qua sông  
Tiến, cầu Xuân Tô, Hoàng Diệu trên quốc lộ 91 và đang triển khai xây 
dựng cầu Cần Thơ qua sông Hậu.
Về xây dựng cụm dân cư, nghành xây dựng
 đã kết hợp với các tỉnh để lập quy hoạch xây dựng 1132 trung tâm cụm 
xã, xây dựng các tuyến dân cư vùng lũ có chiều dài hàng chục km cho hàng
 vạn dân. Đến nay cả ĐBSCL đã xây dựng được 530.000 căn nhà các loại kết
 hợp với chương trình vay vốn tôn nền vượt lũ.
Nhìn toàn cảnh, hệ thống thủy lợi rất 
hợp với giao thông tương đối hoàn chỉnh đã được hình thành ờ ĐBSCL đã 
tạo điều kiện để khai hoang tăng vụ chuyện khoảng 500 ngàn hecta, đưa 
diện tích gieo trồng lúa từ 3,2 triệu hecta năm 1995 lên 4 triệu hecta 
vào năm 2000, sản lượng lương thực tăng liên tục từ 13,8 triệu tấn năm 
1996 lên 16,5 triệu tấn năm 2000, tăng 2,7 triệu tấn trong 5 năm. Năm 
1999, ĐBSCL đã xuất khẩu hơn 4 triệu tấn gạo, đạt kim nghạch xuất khẩu 
gần 700 triệu USD, tạo điều kiện thay đổi cơ cấu canh tác cho nhiều 
vùng, trước hết là vùng Đông Nam Bộ.
Kết quả đáng tự hào của 5 năm thực hiện
 quyết định 99TTG  trước hết là nhờ quyết tâm rất cao của nhà nước trong
 quyết định đầu tư lớn cho ĐBSCL vào thời điểm mà những mâu thuẫn giữa 
tiềm năng phát triển và cơ sở hạ tầng yếu kém của Đồng Bằng đã chín 
muồi. Và, điều cực kỳ quan trọng là chúng ta đã nhắm đúng yếu điểm (điểm
 quan trọng) của ĐBSCL là khâu thủy lợi gắn với giao thông để đột phá. 
Cũng nên nhắc lại lời đồng chí Võ Văn Kiệt  – nguyên Thủ Tướng Chính Phủ
 trong hội nghị triển khai QĐ99TTg ngày 31/3/1996 “ĐBSCL đi lên bằng cái
 gì, công nghiệp hóa bằng cái gì, thoát khỏi nghèo đói bằng cái gì, nếu 
không phải là cơ sở hạ tầng – là cái rất cơ bản để giải quyết hàng loạt 
các vấn đề khác. Hạ tầng đó là thủy lợi gắn với giao thông và gắn với 
đời sống”
Sau hạ tầng thì việc chuyển dịch cơ cấu
 cây trồng là vấn đề nổi cộm ở ĐBSCL. Chính vì vậy mà tại Hội nghị tổng 
kết 5 năm thực hiện QĐQQ TTG do chính phủ chủ trì tại TP.HCM năm 2000. 
Vấn đề chuyển dịp cơ cấu sản xuất được đặt lên hàng đầu với |ĐBSCL trong
 trương trình nghị sự.
Quyết định 99TTG của Thủ Tướng Võ Văn 
kiệt năm 1999 là một bài toán đúng với Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đó là 
một sự thật lịch sử. Nó hoàn toàn không như bài viết nhan đề “ Đê bao 
Đồng Bằng Sông Cửu Long sai lầm “Vĩ đại” trong lịch sử cận đại” của tác 
giả Đảng Xanh trên trang mạng anh Ba Sàm ngày 22-03-2014 đã phê phán 
QĐ99TTG là “ Sai lầm vô phương cứu chữa”.
Là một nhà báo đã nhiều năm thường trú ở
 Đồng Bằng Sông Cửu Long, tác giả của nhiều bài báo, đầu sách về vùng 
đất này, tôi không hề ngạc nhiên với bài viết của tác giả Đảng Xanh. Vì 
Đồng Bằng Sông Cửu Long là một vùng đất mới, rất mới ở tận cùng của đất 
nước. Thổ nhưỡng, khí hậu, đặc điểm của 6 vùng sinh thái ở Đồng Bằng 
Sông Cửu Long (vùng phù sa nước ngọt, vùng nhiều mặn ven biển, vùng tây 
Sông Hồng, vùng bán đảo Cà Mau, vùng tứ giác Long Xuyên, vùng đồng Tháp 
Mười) là rất đa dạng và rất khác nhau. Nếu chỉ cưỡi ngựa xem hoa, đến 
nghe kể rồi về viết thành bài báo… thì không khác gì thầy bói xem voi! 
Từ ngày đất nước thống nhất đến nay, cũng chưa hề có công trình nào tổng
 kết về những  được mất trong quá trình khai thác Đồng Bằng Sông Cửu 
Long gần 40 năm qua. Vì thế, chỉ dựa vào những chương trình của VTV, 
những bài viết đăng lẻ tẻ trên các báo về những “bất cập” trong quá 
trình khai thác Đồng Bằng Sông Cửu Long để đi đến một bài viết sơ sài 
như của tác giả Đảng Xanh là hoàn toàn võ đoán, phi khoa học và phi lịch
 sử.
Nếu có một điều gì phải nói với độc giả
 thì tôi xin nói về cái gọi là con đê ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Con đê ở
 Miền Bắc là để ngăn nước dâng trào hai bên bờ sông về mùa lũ. Còn khái 
niệm đê bao ở Đồng Bằng Sông Cửu Long là để ngăn cách vùng nhiễm mặn với
 vùng ngọt. Đê bao lửng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long là con đê đắp tạm thời
 để làm lúa hè thu rồi cho nước chảy tràn đón cá, đón phù sa bón ruộng… 
Sau đó lại làm lúa đông xuân. Đê ngăn mặn như ở vùng Sóc Trăng là để 
chống mặn xâm nhập đồng ruộng. Nhiều người không hiểu những khái niệm 
này nên hễ cứ nói đến đê ở Đồng Bằng Sông Cửu Long là dị ứng!!!
Ông Đỗ Mười lúc làm Tổng Bí Thư, khi vô
 Nam kinh lý, được thứ trưởng bộ thủy Nguyễn Giới trình bày cặn kẽ về 
các hệ thống đê bao, đê bao lửng, đê ngăn mặn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long,
 ông đã rút lui ý kiến “Huy động toàn Đảng, toàn Dân đắp đê (theo kiểu 
Miền Bắc) cho Đồng Bằng Sông Cửu Long! Ông Đỗ Mười là một người cầu thị 
về vấn đề đê điều ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Vấn đề có tính lịch sử với 
Đồng Bằng Sông Cửu Long là có người đã nêu lên việc khai hoang vùng đồng
 Tháp Mười là phá vỡ sinh thái của đồng bằng. Theo những vị đó thì, nếu 
không tiến hành hợp tác hóa Nông Nghiệp, gây lên cảnh thiếu lương thực 
trên diện tích rộng khiến vì sức ép lương thực mà phải tiến hóa công 
cuộc khai phá vùng hoang Đồng Tháp Mười.
Nhưng lịch sử không có chữ “nếu”. Người
 Pháp có câu ngạn ngữ: “Với một chữ nếu, tôi có thể cho cả thành Paris 
vào một cái lọ!”. Chính các chuyên gia Liên Xô ban đầu cũng khuyên chúng
 ta không nên khai thác vùng trũng đồng Tháp Mười mà để vùng ngập nước 
rộng lớn này làm nơi thu hút tất cả chim chóc của vùng Đông Nam Á về 
đây… Đồng Tháp Mười sẽ thành điểm du lịch tầm cỡ thế giới. Đó là một lời
 khuyên chân thành. Vì 700.000 héc ta lúa ở Đồng Tháp Mười hôm nay chưa 
chắc đã sinh lợi bằng khai thác du lịch. Nhưng sức ép lương thực những 
năm 80 buộc chúng ta phải tiếu vào Đồng Tháp Mười. Lịch sử là như thế, 
không có chữ “nếu”. Bây giờ ngồi mà phê phán việc khai phá vùng hoang 
Đồng Tháp Mười là phi lịch sử.
Còn cái sai lầm “vĩ đại” như tác giả 
Đảng Xanh vừa nêu với Đồng Bằng Sông Cửu Long thì nó ở ngay trước mặt 
chúng ta, ai cũng nhìn thấy… Đó là việc nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long
 đã làm ra một sản lượng lúa, gạo xuất nhập khẩu đứng hạng thứ nhì, ba 
trên thế giới mà càng ngày càng nghèo đói.
Còn các nhóm lợi ích xuất khẩu gạo của 
quốc doanh, được vay vốn lãi xuất thấp của ngân hàng để độc quyền tích 
trữ gạo, xuất gạo thì ngày một giàu có, phè phỡn… Đó mới là bất công vĩ 
đại nhất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện nay.
Để kết thúc bài viết đã dài này, tôi 
xin trích dẫn một đoạn văn rất hay của Nguyễn Văn Bổng viết về những 
người nông dân đi khai hoang ở Đồng Bằng Sông Cửu Long năm xưa
“Đất nước ta càng về Phương Nam càng là
 đất mới, đất lưu đầy, đất của những người không có quyền sống trên 
những mảnh đất đã được khai phá, Vì vậy, càng là đất của những người nổi
 dậy. Miền Tây Nam Bộ là mảnh đất lưu đầy và nổi dậy cuối cùng của Tổ 
Quốc. Đến đây là sau cùng thủy tận rồi. Đến đây là đến bến bờ Thái Bình 
Dương, Vịnh Xiêm la mờ mịt rồi. Đến đây chỉ còn hai con đường. Một là 
không đủ nghị lực sống nữa thì đâm đầu xuống biển mà chết, hai là cố bám
 lại đấu tranh để sống. Con người đến đây là con người liều, con người 
ngang tàng, nghĩa khí, tính mạng coi nhẹ lông hồng, tiền tài coi khinh 
như rơm rác. Đối với họ nghĩa khí là trọng.
Họ không cần có nhà đẹp, vì xưa nay 
không ở đâu được lâu. Nhà của họ là “nhà đá”, “nhà đạp” dựng lên đó, ở 
lại đó nhưng nếu không chịu nổi áp bức thì lại đạp đi, đá đi đến chỗ 
khác mà ở. Họ chẳng cần mặc sang và có thì ăn, cũng không cần lo cho 
ngày mai lắm. Vì trước đây họ chắc gì được sống đến ngày mai, còn miễn 
sống được thì ngày mai ở trên hai cánh tay của mình, dưới sông, dưới 
rạch, trong rừng kia. Họ vồ vập hiếu khách vì cuộc đời của họ đã buồn 
lắm rồi, heo hút cô đơn lắm rồi.
Họ chỉ có tình nghĩa là đậm đà với 
nhau. Họ sẵn sàng nhường cơm sẻ áo. Vì họ đã từng biết cái cực, cái nhọc
 của đói khổ là thế nào. Và trên hết, họ rất căm thù, đừng động đến 
họ!”. ( NVB – Đằng sau một cuốn sách )
Hậu duệ của những người nông dân gan 
góc đi mở cõi năm xưa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hôm nay vẫn cực, vẫn 
nhọc. Đó mới là sai lầm vĩ đại nhất của chúng ta lúc này, thưa tác giả 
Đảng Xanh!
—
(*) Nguyên phóng viên đài TNVN thường trú ĐBSCL 
Đọc thêm:
.
- Quyết định số 99-TTg của Thủ tướng Võ Văn Kiệt,
 ngày 9/2/1996:  VỀ ĐỊNH HƯỚNG DÀI HẠN VÀ KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996-2000 ĐỐI 
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN THUỶ LỢI, GIAO THÔNG VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG
 BẰNG SÔNG CỬU LONG.
- ”Nên cân nhắc việc đắp đê bao phòng chống lũ” (Sài Gòn giải phóng, 27/8/2001).
- Lũ ở đồng bằng sông Cửu Long: Đề phòng tác hại lâu dài của đê bao (Tuổi trẻ, 15/10/2005).
- ‘Giải pháp đê bao chống lũ đã… sinh hại’ (VNExpress, 20/8/2006).
- Đê bao, bờ bao là hai khái niệm khác nhau  (Lao động, 26/9/2006).
- MỘT GIẢI PHÁP ĐƯỢC ĐỀ XUẤT TỪ BAN ĐIỀU PHỐI CHỐNG NGẬP TPHCM: “Nhốt” TPHCM trong đê bao để chống triều cường (Sức khỏe&Dinh dưỡng, 20/11/2007).
- Ông Sáu Dân với Đồng bằng sông Cửu Long (Kinh tế nông thôn, 27/5/2009).
- Hội thảo biến đổi khí hậu tác động lên sông Mêkong (VOA, 20/12/2009).
- Từ chuyện chống ngập ở TP. HCM nhìn về Đồng bằng sông Cửu Long: Đắp đê chống ngập, ngăn triều, nên chăng? (Doanh nhân SG, 11/12/2010).
- Nguyễn Minh Nhị: Nhớ ơn ông Sáu (Tuổi trẻ, 9/6/2011).
- Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt: Hiệu quả đầu tư phát triển thủy lợi tại ĐB sông Cửu Long (Hội đập lớn&Phát triển nguồn nước VN). - Tô Văn Trường: Đê bao, bờ bao ở đồng bằng sông Cửu Long . -  M. Ho Ta Khanh: Ảnh hưởng của việc xây dựng các công trình thủy điện – thủy lợi trên sông Mekong (2/12/2011). – KS. Nguyễn Văn Tăng: Hãy chủ động trong bị động về sông Mê Kông (7/12/2011). - Nguyễn Ngọc Trân: Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt với biến đổi khí hậu (Bản PDF. 3/2/2014). – Lê Anh Tuấn: Các đập nước và hồ chứa ở thượng nguồn: có hay không nguy cơ môi sinh tiềm ẩn cho hạ nguồn sông mekong?  - Tô Văn Trường: Phiêu lưu và lãng phí (27/11/2011).
- Huỳnh Kim: Chuyện lũ lụt, lúa và đê bao ở ĐBSCL (Thời báo KTSG, 3/10/2011).
- Đê bao và lúa ma nơi đỉnh lũ (Tiền phong, 6/10/2011).
- Lũ lụt giúp thay đổi nhận thức (RFA, 7/10/2011).
- Đê bao và thủy sản vùng lũ (Thủy sản VN, 25/10/2011).
- Sống phồn thịnh với lũ (Đại đoàn kết, 27/10/2011).
- Con người và thiên nhiên: lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long (IUCN, 30/10/2011).
- Đê bao Đồng bằng SCL: Hở tốt hơn khép kín (Đất Việt, 9/11/2011).
- Sẽ sắp xếp lại hệ thống đê bao Đồng bằng SCL (Đất Việt, 10/11/2011).
- Nguyễn Minh Nhị: Sản xuất lúa vụ ba – những điều cần cân nhắc (Tia sáng, 27/12/2011).
- Từ lúa vụ 3 nhìn ra Quyết định 99 (Nông nghiệp VN, 4/1/2012). “Từ
 năm 1996 – 2000, các kinh mương, cống bọng, cụm, tuyến dân cư, thoát lũ
 được đầu tư chóng mặt, ngàn năm lịch sử thủy lợi Việt Nam chưa một lần 
có được.”
“Công tác thủy lợi ở ĐBSCL được bắt đầu 
từ triều vua Gia Long, qua Pháp rồi Mỹ nhưng chỉ là đào kênh chưa bao 
giờ biết đến đê. Khi có quyết định 99, từ “bờ bao”, “đê bao”, “đê bao 
lửng” mới xuất hiện theo phương châm “ 2 vụ lúa ăn chắc”.”
- Thủ tướng của nhân dân (VOV, 19/11/2012).
- Dấu ấn Tứ giác Long Xuyên – Kỳ 2: Những quyết sách táo bạo (Báo An Giang, 24/12/2012).
-  Những dấu ấn về công trình “Thoát lũ ra biển Tây” (Dân trí, 19/11/2012). - Tranh chấp ý tưởng “thoát lũ ra biển Tây” (Thanh niên, 16/12/2012). – GS Nguyễn Văn Hiệu:  Thành công tuyệt vời của phương châm “Chung sống với lũ” (Dân trí, 11/2/2013).  - Hiệu quả từ công trình Thoát lũ ra biển Tây (Bộ TNMT, 20/8/2013). - Những nhà khoa học miệt mài dốc sức ngăn lũ lớn (VOV, 22/11/2013).
- Ngọc Bích: Hướng tới hợp tác phát triển châu thổ Mekong bền vững (SG Tiếp thị, 13/10/2013).
- ĐBSCL: Giá lúa giảm 400 đồng/kg (Sài Gòn giải phóng, 8/3/2014).
- Mặn đã “tấn công” tới giữa vùng châu thổ Cửu Long (Tầm nhình, 1/3/2014). 
No comments:
Post a Comment