VOA
 Vào thời Edo, quyền cai trị đất nước tập trung vào Mạc phủ (Tokugawa) đóng tại Edo (Tokyo ngày nay).
Vào thời Edo, quyền cai trị đất nước tập trung vào Mạc phủ (Tokugawa) đóng tại Edo (Tokyo ngày nay).
                    25.01.2015 
Vào giữa thế kỷ 19, Nhật Bản là một nước phong kiến, bế quan tỏa 
cảng, xã hội phân chia thành các giai cấp sĩ, nông, công, thương và chịu
 ảnh hưởng của Nho giáo. Thế rồi hạm đội Mỹ của đô đốc Perry xuất hiện ở
 Uraga thuộc Vịnh Edo năm 1853 đã khuấy động cả xã hội phẳng lặng đó. 
Chỉ có 15 năm (Minh Trị duy tân bắt đầu năm 1868), các sĩ phu, các lãnh 
đạo của Nhật đã biến một đất nước phong kiến bảo thủ trở thành một nhà 
nước tiếp thu toàn diện thế giới văn minh để tiến lên hàng các quốc gia 
thượng đẳng. Họ đã làm kỳ tích đó trong thời đại không có máy bay, không
 có điện thoại, điều kiện đi lại khó khăn và nhiều trở ngại về ngôn ngữ,
 văn hóa trong việc tìm hiểu sức mạnh của phương Tây. Vậy đâu là những 
yếu tố cơ bản để Nhật Bản xoay chuyển vận mệnh đất nước trong một thời 
gian rất ngắn?
Buổi giao thời từ thời đại Edo sang Minh Trị Duy Tân
Vào thời Edo, quyền cai trị đất nước tập trung vào Mạc phủ (Tokugawa)
 đóng tại Edo (Tokyo ngày nay). Các tướng quân dòng họ Tokugawa nắm thực
 quyền, Thiên hoàng đóng đô ở Kyoto chỉ có vai trò tượng trưng.
Cả nước có 277 phiên ấp. Chế độ Sankin Kotai gây tốn kém cho những 
phiên ấp xa Edo. Do đó, một số phiên hùng mạnh bất mãn với Mạc phủ vào 
giai đoạn cuối thời Edo, điển hình là phiên Choshu (tỉnh Yamaguchi ngày 
nay).
Năm1853 hạm đội Mỹ do đô đốc Perry ghé cảng Edo yêu cầu Mạc phủ mở 
cửa giao thương. Năm 1858 Perry lại đến và yêu cầu ký các hiệp ước. Các 
hiệp ước này nhiều phần bất lợi cho Nhật, bao gồm mất chủ quyền về thuế 
quan và không có quyền tài phán đối với người nước ngoài cư trú tại 
Nhật. Chính quyền Mạc phủ sợ các nước phương Tây gây chiến nên đã ký các
 hiệp ước này. Nội tình trong nước trở nên hỗn loạn, xuất hiện nhiều phe
 phái có lập trường khác nhau. Về đối nội có hai dòng quan điểm: Một là 
tôn vương (chủ trương dành thực quyền về cho Thiên hoàng), hai là duy 
trì thể chế cũ do Mạc phủ cai trị. Về đối ngoại chính trường Nhật cũng 
phân thành hai quan điểm, hoặc là nhương di (bài ngoại), hoặc là khai 
phóng (mở cửa giao thương và học tập nước ngoài).
Hai phiên mạnh nhất bấy giờ là Satsuma (tỉnh Kagoshima ngày nay) và 
Choshu (tỉnh Yamaguchi ngày nay) có tư tưởng bài ngoại, quyết chống lại 
Tây phương bằng vũ lực. Nhưng về đối nội thì hai bên có lập trường khác,
 Satsuma ủng hộ Mạc phủ trong khi Choshu thì tồn vương. Năm 1963 do tư 
tưởng bài ngoại, Satsuma bắn vào thương thuyền của Anh và chiến tranh 
xảy ra, người Nhật thảm bại.
Giữa lúc đó ở Nhật Bản xuất hiện hai nhà tư tưởng:Yoshida Shoin và 
Takasugi Shinsaku ở Choshu. Đây là hai nhà tư tưởng lớn. Yoshida cho 
rằng không biết người thì làm sao thắng được người trong các cuộc tranh 
chấp. Takasugi, học trò của Yoshida, đã triển khai ý tưởng ấy của thầy 
mình thành chính sách cụ thể rằng phải học tập nước ngoài mới có ngày 
thắng được nước ngoài. Với sự chuyển hướng của hai phiên mạnh nhất, 
khuynh hướng hòa hoãn với nước ngoài và học tập văn minh Tây phương dần 
dần chiếm ưu thế.
Vấn đề còn lại là đối nội: Thế lực nào sẽ lãnh đạo Nhật Bản trong 
thời đại học tập nước ngoài để xây dựng đất nước? Phiên Satsuma chuyển 
giao quyền lực cho thế hệ lãnh đạo trẻ như Saigo Takamori và Ohkubo 
Toshimichi, hai người sau này trở thành nòng cốt trong thời đại Minh 
Trị. Ý thức ủng hộ Mạc phủ ngày càng phai nhạt và dần dần họ thấy phải 
đoàn kết chung quanh Thiên Hoàng, biểu tượng cho sự thống nhất dân tộc 
nhằm đưa đất nước vào giai đoạn mới từ khi Thiên Hoàng Minh Trị mới 15 
tuổi không giữ một vai trò nào cả.
Vô huyết khai thành
Giữa lúc đó vũ đài chính trị Nhật xuất hiện đúng lúc nhân vật 
Sakamato Ryoma, một chí sĩ thuộc phiên Tosa (tỉnh Kochi ngày nay). Năm 
18 tuổi (1853), trên đường từ Tosa lên Edo để học kiếm thuật, Sakamoto 
Ryoma đã tận mắt chứng kiến hạm đội Perry, cảm nhận sức mạnh Tây phương 
và thấy sự cần thiết phải thay đổi của đất nước. Ông tìm đọc hết những 
sách kinh điển của Tây âu vừa mới được dịch sang tiếng Nhật. Nhận thấy 
Mạc Phủ không còn uy tín và năng lực lãnh đạo, Ryoma đã vận động quy tụ 
thế lực mới, bắt đầu điều đình để hai phiên hùng mạnh nhất bấy giờ là 
Satsuma và Choshu làm hòa với nhau và ông đã thành công. Liên minh 
Satsuma-Choshu ra đời, liên kết với Tosa và Hizen là hai phiên khác. 
Saigo Takamori làm lãnh đạo của liên minh này và sửa sọan tấn công vào 
Mạc Phủ.
Trước sức mạnh của phe tôn vương, tướng quân của Mạc Phủ là Yoshinobu
 (cũng là tướng quân cuối cùng của Mạc Phủ) thỏa hiệp bằng cách trả lại 
thực quyền cho Thiên Hoàng tháng 10/1867 với hi vọng quyền lợi của 
Tokugawa được duy trì. Tuy nhiên những người còn lại của phái Mạc Phủ sợ
 bị mất nhiều quyền lợi kèm với việc phải giải tán quân đội nên đã đem 
quân chống lại Thiên Hoàng. Quân Thiên Hoàng do Sago Takamorri chỉ huy 
tiến về Edo chuẩn bị vây thành. Tướng giữ thành Edo của phái Mạc Phủ 
Tokugawa lúc đó là Katsu Kaishu. Thế giới nghĩ sẽ có cuộc đối đầu khủng 
khiếp giữa hai vị tướng kiệt xuất này.
Trước khả năng nước ngoài tìm cách thôn tính Nhật Bản, lãnh đạo hai 
phe Mạc Phủ và Thiên Hoàng đã chọn giải pháp tránh tổn thất cho nhân 
dân. Cuối cùng, sau khi phân tích lực lượng hai bên và tình hình thế 
giới, tương lai đất nước, tướng Katsu đã đi đến quyết định là đầu hàng 
quân đội Thiên Hoàng. Ông thuyết phục phe chủ chiến trong thành và hứa 
sẽ đưa ra các điều kiện đầu hàng không phương hại đến tính mạng và tài 
sản tối thiểu của gia đình, thân tộc của quan lại Mạc Phủ.
Hội đàm giữa Saigo-Katsu ở đền Atago, ngoại thành Edo, dẫn đến bước 
ngoặt của đất nước Nhật mà lịch sử Nhật Bản ngày nay gọi với 4 chữ trang
 trọng: Vô huyết khai thành. Chiến tranh chấm dứt. Tướng quân cuối cùng 
của chế độ cũ được về sống ẩn dật tại Shizouka (gần núi Phú Sĩ). Edo 
được đổi tên là Tokyo tháng 7/1868. Những người giỏi của chế độ cũ Mạc 
Phủ được chính quyền Minh Trị mời cộng tác. Tướng cũ của Mạc Phủ Katsu 
được Minh Trị mời làm bộ trưởng bộ hải quân vì ông là chuyên gia kĩ 
thuật Tây phương. Katsu hiện đại hóa hải quân Nhật và góp công lớn trong
 chiến thắng trong chiến tranh Nhật - Nga năm 1905.
Ít lâu sau Thiên Hoàng Minh Trị dời đô từ Kyoto về Tokyo. Chỉ cần 15 
năm, từ 1853 đến 1868, các sĩ phu, lãnh đạo Nhật đã biến một đất nước 
phong kiến bảo thủ thành một nhà nước tiếp thu toàn diện thế giới văn 
minh để tiến lên hàng các quốc gia thượng đẳng.
Bài học từ người Nhật
Ý chí, trí tuệ, sự chuyển dịch tư tưởng rất nhanh của những lãnh đạo 
thời đó đã xoay chuyển đất nước một cách ngoạn mục với tốc độ kì diệu, 
cho tới nay vẫn là bài học lớn cho các nước trên thế giới. GS-TS Trần Lê
 Thọ, khoa kinh tế tại Đại học Waseda (Tokyo), nguyên thành viên Ban tư 
vấn cải cách của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên ủy viên chuyên môn trong 
Hội đồng tư vấn kinh tế của các thủ tướng Nhật Kaifu, Miyazawa và 
Hashimoto, phân tích rằng có hai giả thuyết sơ bộ dẫn đến sự thay đổi 
thần kỳ của nước Nhật.
Thứ nhất, trí thức Nhật đã khôn khéo dùng Thiên Hoàng làm biểu tượng 
để dễ bề thống nhất các lực lượng vốn đã phân tán do chế độ phiên trấn 
thời Mạc Phủ. Trước nguy cơ bị nước ngoài thống trị, dù với lập trường 
chính trị nào, người Nhật cũng nhận thấy rằng cần phải đoàn kết. Các sĩ 
phu, các lãnh đạo thời đó đã đặt tiền đồ, vận mệnh đất nước lên trên hết
 nên đã thỏa hiệp nhanh chóng.
Thứ hai, những sĩ phu, lãnh đạo của Nhật thức thời nhanh chóng nên đã
 thay đổi chiến lược một cách ngoạn mục. Chỉ qua một trận đánh họ đã 
nhận ra ngay được sức mạnh quân sự Âu Mỹ, khác với sĩ phu Trung Quốc ỷ 
thế dân đông nên kiên quyết đối đầu quân sự với phương Tây nên nhanh 
chóng thất bại. Các sĩ phu Nhật mới đọc một số sách vở đã ngộ ra sức 
mạnh của văn minh phương Tây và thấy cần phải học hỏi để canh tân đất 
nước, khác với người Trung Quốc không thoát khỏi Nho giáo nên bị trì trệ
 trong cuộc đua chính trị, quân sự và khoa học kỹ thuật đương thời. Đằng
 sau những phán đoán chính xác và thay đổi chiến lược kịp thời là tinh 
thần và nỗ lực học hỏi tuyệt vời.
Tiếp nữa là trong lòng chế độ cũ Mạc Phủ có những người phản tỉnh. 
Nổi bật nhất là tướng quân Katsu Kaishu. Ông vốn là vũ sĩ cấp thấp ở 
Edo. Theo Tây học từ năm 17 tuổi, vì sớm biết sức mạnh văn minh phương 
Tây nên ông đã nghiên cứu nghệ thuật và khoa học quân sự phương Tây, 
nhất là lĩnh vực hải quân. Ông từng là giám đốc trường thao luyện hải 
quân và là người có vai trò chủ chốt trong việc lập ra hải quân cho 
chính quyền Tokugawa. Tuy đi theo Tây học nhưng Katsu cũng thấm nhuần 
văn hóa Đông phương, hiểu được tinh hoa của đạo quân tử. Khi biết chế độ
 Mạc Phủ vua tập thể không còn thích hợp, ông đã mở cửa cho việc trao 
lại quyền lực cho phe Thiên Hoàng.
Câu hỏi đặt ra với sĩ phu nước Việt ngày nay, rằng tại sao chỉ cần 
chưa đầy hai mươi năm, lãnh đạo Nhật Bản đã thay đổi được tư duy, còn 
lãnh đạo các nước khác thì không thoát khỏi nếp suy nghĩ cũ? Tại sao 
Nhật Bản vừa hùng mạnh vừa có uy tín trên quốc tế, còn Việt Nam bảy mươi
 năm xã hội chủ nghĩa thì lại không?
 
No comments:
Post a Comment