Cập nhật: 10:08 GMT - thứ ba, 24 tháng 9, 2013 




Hai năm trước, khi đến thăm Bảo tàng 
Quốc gia Malaysia ở Kualar Lumpur, tôi đã thấy nhà rông, cồng 
chiêng và cột nhà mồ như ở Tây Nguyên, Việt Nam và hiểu rằng 
văn minh Đông Nam Á cổ đã trải rộng thế nào ở châu Á lục địa.
Nhưng tuần qua, khi vào Bảo tàng Quốc gia 
Indonesia giữa thủ đô Jakarta thì tôi khá ngạc nhiên khi thấy bốn
 chiếc trống đồng Đông Sơn (Dongson kettledrum) trưng bày ở đó 
trong phần về di sản văn hóa nước này.
Với các hình mặt trời và cả chim Lạc 
giống hệt như ở trống ở Bảo tàng Lịch sử tại Hà Nội, trống 
đồng tại Indonesia, mà họ gọi là gendang, đã được tìm thấy ở 
các đảo xa ngoài Thái Bình Dương.
Một trong số đảo đó là East Nusa Tengarah (cách TPHCM 2600 km đường chim bay), nơi người ta tìm được một chiếc trống đồng năm 1828.
Một trong số đảo đó là East Nusa Tengarah (cách TPHCM 2600 km đường chim bay), nơi người ta tìm được một chiếc trống đồng năm 1828.
Nhưng ngoài ba trống đồng có hình người 
chèo thuyền, chim và thú như trống ở Việt Nam, chiếc thứ tư có
 hoa văn dạng khác hẳn, cho thấy một sự dịch chuyển, biến đổi 
về văn hóa trống đồng.
Ngoài khu vực đồng bằng sông Hồng, hàng 
trăm chiếc trống thuộc nhiều giai đoạn khác nhau đã được tìm 
thấy ở Nam Trung Hoa, Lào, Thái Lan, và tất nhiên là ở các hải
 đảo.
Ở đây tôi không muốn đi vào câu chuyện của 
giới khảo cổ rằng trống đồng đã có ở đâu, ai làm ra...mà chỉ
 muốn chia sẻ một chút cảm nghĩ về thái độ nhìn lịch sử của
 người Indonesia.
Giống và khác
 
Giống và khác

Gốm sứ Việt Nam đã đến Indonesia qua nhiều thế kỷ và đóng góp vào văn hóa ở đây
Như câu chuyện trống đồng Indonesia cho 
thấy, hiện còn rõ dấu tích của một nền văn minh bản địa đã 
trải rộng từ vùng lục địa Đông Nam Á sang các hải đảo, trước 
khi hai dòng văn minh lớn khác là Trung Hoa và Hồi giáo ập đến.
Tại Bảo tàng Quốc gia Indonesia, người ta 
viết rõ rằng quốc gia mà nay có gần 250 triệu dân, là do người
 chủng Mongoloid từ châu Á lục địa ra và các nhóm Melanesian và
 Austronesian từ vùng hải đảo tới mà thành.
Sự giao lưu, hòa trộn này có trùng hợp với truyền thuyết '50 con lên rừng, 50 con xuống biển' ở Việt Nam?
Lời thuyết minh cũng nói chừng 6000 năm 
trước, các nhóm từ lục địa bắt đầu thống lĩnh các đảo mà 
người Indonesia gọi chung là Nusantara, lập ra các quốc gia sau 
đó theo Ấn giáo và Phật giáo, trước khi đạo Hồi tràn đến.
Ở thời kỳ tiền Hồi giáo tại Indonesia hay
 trước Khổng giáo ở Việt Nam, hẳn các tộc người bản địa có 
trao đổi văn hóa mạnh mẽ, liên tục, nếu không nói là cùng chung
 nhiều yếu tố từ ngôn ngữ, ăn mặc đến thờ cúng mà các hình 
trên trống đồng chỉ là một biểu hiện còn thấy được.
Và cứ thể mà suy ra thì nhóm Việt (Kinh) 
ở Việt Nam hiện nay không phải nhóm thừa kế duy nhất về văn 
hóa từ đại gia đình Đông Nam Á đó.
Nhưng người Việt vì ở tuyến đầu chống 
lại sức ép từ Phương Bắc, dù giữ được độc lập đã chịu ảnh 
hưởng của văn hóa Hán sâu rộng hơn hẳn các dân tộc Đông Nam Á 
khác và phần nào tiếp nhận cả tư duy độc tôn kiểu Hán.
Trái lại, tác động của Trung Quốc đến 
các đảo Indonesia xa xôi chưa bao giờ mạnh như ở Đông Dương mà 
chỉ là một trong nhiều dòng văn hóa du nhập vào đây.
Chữ Hán cũng xuất hiện trên các đồ tế 
tự nhập vào Indonesia bởi người gốc Hoa nhưng sắc dân này cũng 
thường bị đồng hóa vào các nhóm Phật giáo bản địa và ngôn 
ngữ Hán chưa bao giờ có vị trí gì cao, theo lời giới thiệu ở 
Bảo tàng Quốc gia Indonesia.
Bên cạnh dấu ấn từ Ấn Độ và thế giới 
Hồi giáo luôn rất mạnh và rõ rệt, Bảo tàng này cũng ghi nhận
 bốn dòng văn hóa ảnh hưởng đến nghệ thuật gốm sứ của họ: 
Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Thái Lan.

Hình chim Lạc trên một chiếc trống đồng Indonesia
Điều này hẳn làm người Việt Nam cảm thấy
 tự hào nhưng cũng khiến bạn tự hỏi vì sao trong cách trình 
bày về lịch sử, trong người Việt luôn có xu hướng không rộng 
rãi và bao dung bằng người Indonesia.
Người Việt thường thích nhấn mạnh đến sự
 riêng biệt, độc tôn của mình mà làm nhẹ đi nguồn gốc chung 
với nhiều dân tộc khác dù trên thực tế văn hóa chỉ lớn được 
qua sự tiếp thu, hội nhập và giao lưu. 
Không độc quyền
 
Không độc quyền
Sau khi giành độc lập, người Java đông nhất
 tại Indonesia (hiện có 100 triệu) tự nguyện không chọn tiếng 
Java mà chấp nhận dùng tiếng Bahasa Indonesia, gốc Mã Lai làm 
ngôn ngữ quốc gia để thống nhất 300 dân tộc khác nhau trên hàng 
nghìn hòn đảo.
Nhưng dù dùng chung Bahasa Indonesia, các 
nhóm sắc tộc Indonesia ngày nay vẫn có quyền học tiếng mẹ đẻ 
của mình ở trường đến hết tiểu học.
Còn ở Việt Nam, nước chính thức có trên 
50 nhóm sắc tộc, tiếng Kinh chiếm ví trí độc tôn trong mọi 
lĩnh vực của đời sống văn hóa, xã hội và các ngôn ngữ thiểu 
số có nguy cơ bị mai một, thậm chí biến mất trong tương lai.
Tính bao dung của Indonesia còn nổi bật lên khi nhìn vào báo chí và hệ thống chính trị.
Dù 86% dân số theo Hồi giáo, các đạo khác
 Phật, Thiên Chúa giáo...có vị trí được công nhận trong hiến 
pháp nước cộng hòa.

Các nhà báo Indonesia quan tâm nhiều đến Việt Nam
Hiện nay, đôi khi vẫn có va chạm giữa tín 
đồ Hồi giáo phái Sunni và thiểu số phái Shia nhưng đây không 
phải là đề tài cấm kỵ và báo chí nói đến nó liên tục.
Từ sau khi ông Suharto sụp đổ năm 1998, sau 
một thời 'tập sự dân chủ', nay Indonesia đã có một nền chính 
trị đa nguyên khá sôi động, và năm 2014 sẽ có kỳ bỏ phiếu khép
 lại hai nhiệm kỳ của Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono.
Đến Jakarta trước năm bầu cử cả quốc hội 
và tổng thống nên tôi được nghe các nhà báo ở đây bàn thảo 
rất nhiều về các ứng viên tiềm năng, các đảng khác nhau, về 
chuyện tham nhũng, chuyện kinh tế, giao lưu khu vực và cơ hội 
của Indonesia.
So với nhiều nơi khác ở châu Á, tôi thấy 
các nhà báo bạn không chỉ cởi mở, trẻ trung, thạo tiếng Anh 
mà còn rất quý Việt Nam.
Không ít biên tập viên, phóng viên đã từng 
sang Việt Nam dự các sự kiện thể thao, chính trị ASEAN, và 
trận đá bóng Cup AFF giữa Việt Nam và Thái Lan tuần rồi cũng 
trở thành chủ đề bàn tán của các đồng nghiệp trong văn phòng 
BBC Indonesia ở Jakarta vào sáng hôm sau.
Ngồi ăn bánh chưng chay với các bạn 
Indonesia, cũng thứ bánh bằng gạo nếp, nhân đỗ xanh, quấn lá 
chuối nhưng gói mỏng hơn bánh ở Việt Nam, tôi cảm được sự tương
 đồng văn hóa vẫn còn từ một thời kỳ xa xưa với xứ sở và con
 người ở đây.
Nhưng hai xã hội này có vẻ đang chọn hay con đường khác nhau.
Indonesia đã và đang thể hiện vai trò đàn 
anh trong ASEAN, là cầu nối giữa Thế giới Hồi giáo và các 
cường quốc Phương Tây và có tham vọng thành nền kinh tế lớn 
thứ 7 thế giới vào năm 2030.
Việt Nam cũng đang nỗ lực đóng một vai 
trò quan trọng về an ninh vùng nhưng còn thiếu tham vọng ở tầm 
khu vực cho xứng đáng với số dân và khao khát của giới trẻ.
Trở lại chuyện trống đồng, người Indonesia
 đang tự hào rằng trên đảo Selayar của họ hiện có chiếc trống 
đồng Đông Sơn, cũng thuộc loại Heger I, 'to nhất thế giới'.

Indonesia coi trọng quan niệm di sản văn hóa mở
Tranh cãi ai kế thừa cái gì ở thời kỳ 
chưa hình thành quốc gia dân tộc, như cuộc tranh luận Việt - 
Trung rằng đâu là cái nôi của trống đồng, dễ trở nên vô nghĩa 
nếu ta tiếp thu tinh thần vươn ra biển xa của các chủ nhân trống
 đồng hàng nghìn năm trước.
To lớn nhưng vẫn bao dung trong đa dạng là tinh thần Indonesia ngày nay.
Có thể vì thái độ với quá khứ hẹp hơn 
các quốc gia hải đảo nên Việt Nam chưa thể 'lướt sóng' ngoài 
đại dương được?

 
No comments:
Post a Comment