Rồng và quái vật?
Cập nhật: 16:01 GMT - thứ năm, 1 tháng 11, 2012
Cuối thập kỷ 1980, Nhật là một nền kinh tế tăng trưởng mạnh.
Sản lượng của nước này tăng gấp 50 lần, tính theo đôla trong thời
gian của một thế hệ, và Nhật đã hầu như đã vượt qua Mỹ để trở thành nước
có công nghệ cao nhất. Đối với giới quan sát, chỉ cần khoảng một thập
kỷ để Nhật có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất và cường quốc thứ ba
thế giới.
Tất nhiên, điều đó đã không xảy ra. Thay vào đó,
vào năm 1990, thị trường chứng khoán và bất động sản của Nhật sụp đổ
một cách ấn tượng, khiến nước này phải chứng kiến hai thập kỷ đình trệ
kinh tế.
Sự vươn lên ở mức chóng mặt của con rồng kinh tế Trung Quốc cũng cho thấy sự giống nhau một cách ớn lạnh.
Nhiều nhà bình luận với giọng điệu hoài nghi đã
chỉ ra sự tương đồng với Nhật, nói rằng nước này chắc chắn sẽ đi xuống.
Nhưng liệu điều này có công bằng?
Chúng tôi so sánh hai quốc gia này với nhau để quý vị có thể quyết định:
Nhật Bản 1990 |
Trung Quốc 2012 |
|
Dân số | 125 triệu dân hay 2,3% dân số thế giới | 1,344 tỷ dân hay 19% dân số thế giới |
Quy mô kinh tế | 3,1 nghìn tỷ đôla, 54% GDP Mỹ năm 1990 | 7,3 nghìn tỷ đôla, 48% GDP Mỹ hiện tại |
Tăng trưởng trung bình | 6,5% trong 35 năm qua | 9,9% trong 35 năm qua |
Bong bóng kinh tế
Sự sụp đổ năm 1990-92 khiến giới chứng khoán Tokyo phải kinh hoàng | Trung Quốc tổ chức lễ khai mạc Olympics phô trương nhất từ trước đến giờ vào năm 2008 | |
Thành tựu: | Các hãng điện tử Trung Quốc sản xuất TV kích cỡ nhỏ nhất trong thập kỷ 80, phô trương sự vượt trội trong công nghệ của mình |
|
|
Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF dự đoán kinh tế Trung Quốc sẽ đứng đầu thế giới vào năm 2016, điều khiến Mỹ phải rùng mình
|
|
Việc Sony mua lại hãng Columbia Pictures của Hollywood khiến Mỹ thêm lo ngại rằng Nhật đang mua hết cả California |
|
|
|
|
|
Thị trường chứng khoán | Chỉ số Nikkei 225 index qua các năm | Chỉ số Thượng Hải index qua các năm |
Bong bóng chứng khoán kéo dài 5 năm của Nhật bị vỡ, khiến khoản tích lũy của nhiều nhà đầu tư Nhật bị mất trắng. Thêm vào đó, nhiều công ty đã mua lại đối thủ bị ở giá bong bóng, dẫn đến việc mua cổ phần bằng tiền mượn ở giá bị đội lên cao so với thực tế. |
Bong bóng chứng khoán hai năm của Trung Quốc bị vỡ ngay trước thềm khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 Tuy nhiên bong bóng chứng khoán của Trung Quốc kéo dài ngắn hơn so với Nhật, do đó gây thiệt hại về vật chất cũng ít hơn. |
|
Bất động sản | Index giá đất định cư khu vực thành thị của Nhật qua các năm. | Số liệu về thị trường bất động sản của Trung Quốc không được thống nhất. |
Giá bất động sản sụt giảm gây thiệt hại nặng cho các doanh nghiệp và người dân Nhật bỏ tiền vay mượn ra mua nhà lúc kinh tế còn tăng trưởng mạnh. | Giá nhà ở Bắc Kinh tăng gấp ba lần vào giữa 2003 và 2011, trong khi tại Thượng Hải là hơn bốn lần, theo một nghiên cứu mới nhất. Tại Trùng Khánh, nơi in đậm dấu ấn của ông Bạc Hy Lai, giá nhà tăng gần bảy lần. Sự tăng trưởng giá nhà không hề hợp lý, khi so sánh với thu nhập của người mua và tiền thuê có thể kiếm được từ nhà mua. Ngành xây dựng nhà cửa phát triển mạnh, nất là sau khi chính phủ kích thích tăng trưởng kinh tế vào năm 2008. Có nhiều câu chuyện kể về những dự án ma không có người ở Từ năm 2011, giá nhà và xây dựng bắt đầu có dấu hiệu trượt dốc một cách khủng khiếp, mặc dù hầu hết những dữ liệu mới nhất cho rằng thị trường đã chạm đáy. Rất ít người Trung Quốc dám sử dụng những khoản thế chấp lớn để mua nhà. Tuy vậy, những nhà thầu dự án lớn thường vay mượn mạnh tay, và chính quyền địa phương cũng phụ thuộc vào việc bán đất để kiếm tiền. Cả hai điều này đều chịu ảnh hưởng nặng của sự đóng băng thị trường bất động sản |
|
Cơ sở hạ tầng | Đầu tư chính phủ vào cơ sở hạ tầng tăng mạnh sau khi thị trường bất động sản và chứng khoán vỡ bong bóng sau khủng hoảng kinh tế, điều này sản sinh ra nhiều dự án gây lãng phí, bị châm biếm là "những cây cầu không dẫn tới đâu". Những công trình đáng chú ý gồm có: | Chính phủ Trung Quốc tăng chi tiêu vào mảng cơ sở hạ tầng nhằm chống chọi khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Những công trình đáng chú ý gồm có: |
Đường hầm tàu (đường ray Seikan dài 54 km được xây vào năm 1988) dài nhất thế giới và cầu treo dài nhất (cầu Akashi Kaikyo dài 3,9 km được xây vào năm 1998) |
|
|
|
|
|
|
85 nghìn km các đường cao tốc hoàn thành tính đến năm 2011, nhiều hơn nhiều so với hệ thống đường cao tốc của Mỹ | |
|
|
Sự mất cân bằng
Người Nhật lẽ ra đã có thể nhìn ít đi và mua nhiều hơn | Nhà sản xuất và xuất khẩu lớn nhất thế giới | |
Xuất khẩu | Thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật: 4,3% tổng sản phẩm quốc nội năm 1987 Sự thành công của ngành xuất khẩu Nhật vào thập niên 80 làm kinh ngạc phương Tây, dẫn đến Hiệp định năm 1985, với việc Nhật đồng ý để đồng Yên mạnh hơn so với đôla. Tuy nhiên mặc dù chấp nhận bất lợi trong tỷ giá tiền tệ, xu hướng phụ thuộc mạnh vào xuất khẩu của Nhật vẫn được tiếp tục và khiến nước này có được thặng dư tài khoản vãng lai bằng 4,8% GDP vào năm 2008 |
Thặng dư tài khoản vãng lai Trung Quốc: 10,6% tổng sản phẩm quốc nội Nước này hiện vẫn đang chịu nhiều cáo buộc, nhất là từ Mỹ, vì đã thao túng đồng Nhân Dân Tệ, đem lại tỷ giá rẻ hơn so với đồng đôla một cách trái phép. Từ đó trở đi, Trung Quốc đã cho phép đồng tiền của mình tăng giá 9% và liên tục tăng mức lương trung bình của người dân để giảm tính cạnh tranh. Sau động thái này, thặng dư tài khoản vãng lai của Trung Quốc rút xuống còn 3% GDP. Tuy nhiên lý do chính cho điều này còn là vì nhu cầu của phương Tây đối với hàng hóa của Trung Quốc đang giảm đi, trong lúc nhu cầu nhập khẩu vật liệu cho ngành xây dựng đang phát triển trong nước ngày càng cao |
Chi tiêu | Chi tiêu của người tiêu dùng đóng góp 53% cho nền kinh tế Nhật vào năm 1990, so với khoảng 70% của phương Tây. Chi tiêu ở dạng đầu tư (căn hộ mới, giáo dục, v.v) đóng góp 32%. Khi thời kỳ tăng trưởng đầu tư bắt đầu dừng lại, chính phủ Nhật đã phải kêu gọi người dân tăng cường chi tiêu nhanh để bù vào khoản bị thiếu |
Chỉ có 34% chi tiêu của Trung Quốc là từ người tiêu dùng trả cho hàng hóa và dịch vụ 48% chi tiêu là từ đầu tư. Nói một cách khác, sự mất cân bằng cơ bản tại Trung Quốc ngày nay lớn hơn Nhật hai thập kỷ trước. Một số kinh tế gia nghĩ rằng điều này có nghĩa là Trung Quốc sẽ phải thúc đẩy chi tiêu trong nước mạnh mẽ nếu như muốn tránh khỏi đình trệ kinh tế như Nhật |
Tập quán tiết kiệm | Các hộ gia đình Nhật thường tiết kiệm khoảng 10% thu nhập trong năm 1990. Chính phủ đã phải kêu gọi người dân tiết kiệm ít đi và tăng chi tiêu. Tuy nhiên cũng đã phải mất 10 năm để mức tiết kiệm này xuống thấp bằng mức thông thường ở phương Tây. Trong thời gian đó, nền kinh tế Nhật bị đình trệ |
Các hộ gia đình Trung Quốc tiết kiệm đến 25% tiền thu nhập. Mức tiết kiệm cao là do tiền lệ tiết kiệm để chi tiêu cho một gia đình lớn, trong đó có chi phí giáo dục cho trẻ em trong nhà, trả chi phí thuốc men cho người già và những thành viên đã về hưu trong gia đình. |
Những giới hạn
Sân bay quốc tế Kansai đã bắt đầu chìm từ lâu | Chính sách một con của Trung Quốc còn được gọi là chính sách "bốn ông bà cho một cháu" | |
Kinh tế toàn cầu | Sau thời kỳ đình trệ đầu thập niên 90, kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh hơn một thập kỷ, giúp duy trì thế mạnh xuất khẩu của Nhật | Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với nhiều thử thách hơn. Các thị trường xuất khẩu chính của nước này, trong đó có Mỹ, Châu Âu và Nhật đang chịu nhìu khó khăn, đồng thời việc tài khoản vãng lai của Trung Quốc tiếp tục có thặng dư gây nhiều bất đồng chính trị từ các nước này (nhất là Mỹ) |
Nợ xấu | Công nghiệp của Nhật và ngành ngân hàng bị tràn ngập bởi nợ xấu Nhiều khoản vốn vay được sử dụng để mua đất, nhà ở và các công ty khác ở 'giá bong bóng'. Giữa năm 1992 và 2005, các ngân hàng của Nhật phải đối diện với nợ không đòi được ở mức 19% tổng sản phẩm quốc nội. Để giúp duy trì nền kinh tế, chính phủ Nhật đã phải huy động các khoản nợ bằng 230% GDP. |
Nỗ lực của chính phủ nhằm duy trì tăng trưởng sau năm 2008 khiến các ngân hàng được sở hữu bởi nhà nước phải tăng cường cho vay. Trong 12 tháng trước tháng Mười năm 2008, các ngân hàng đã cho vay tổng cộng 1,5 nghìn tỷ đôla, bằng 30% tổng sản phẩm quốc nội. Hệ thống tài chính của Trung Quốc cũng đã bị cáo buộc là cho vay nhiều khoản nợ ngầm. Một ví dụ như trong năm 2011, có nhiều cáo buộc cho rằng các chính quyền địa phương đã vay 2,2 nghìn tỷ đôla, rất nhiều các khoản này không được công khai. |
Triển vọng tăng trưởng | Vào năm 1990, Nhật đã là một nước phát triển mạnh. Đóng góp kinh tế của mỗi công dân Nhật bằng 83% mức trung bình một người Mỹ. Khi chính phủ cố gắng thúc đẩy kinh tế trong thập niên 90 bằng việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, khó khăn lớn nhất đó là hầu hết cơ sở hạ tầng cần thiết bấy giờ đều đã được xây |
Trung Quốc vẫn là một nước nghèo. Đóng góp vào kinh tế của một người dân Trung Quốc chỉ bằng 17% mức trung bình một người Mỹ. Một nửa dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp và chưa có cơ hội đến các thành phố nơi họ có thể đóng góp nhiều hơn bằng việc làm trong ngành công nghiệp Vì vậy Trung Quốc có nhiều cơ hội để giải quyết các vấn đề hiện tại hơn Nhật trước đây. |
Độ tuổi dân số | Tỷ lệ dân số lao động hiệu quả của Nhật, từ 15-65 tăng cao nhất trong đầu thập niên 90. Trước thời điểm đó, dân số tăng trưởng đều, với những người đi làm đều phải chăm sóc ít con hoặc bố mẹ đã nghỉ hưu. Những người công nhân tuổi cao hơn được nhận bổng lộc cao để tích lũy cho lúc về hưu, dẫn đến tăng trưởng đầu tư và bong bóng thị trường. Kể từ thập niên 90, số lượng công nhân nghỉ hưu mà nền kinh tế phải hỗ trợ tăng đều, từ 12% đến 23% dân số. Trong khi đó dân số Nhật đang có xu hướng giảm đi. |
Nhờ vào hệ thống một con,
đưa vào từ năm 1978, Trung Quốc cũng đã có 30 năm phát huy được thế mạnh
của đội ngũ công nhân lao động hiệu quả không phải chăm sóc cho nhiều
con cái và bố mẹ. Tuy nhiên hiện tại Trung Quốc đang rơi vào giai đoạn thay đổi tỷ lệ độ tuổi mà Nhật đã trải qua trong năm 1990. Giới chức trách Nhật đã cảnh báo rằng Trung Quốc có thể đối mặt với những vấn đề tương tự của nước này, trong đó có dân số lão hóa, khiến công dân cao tuổi cần chăm sóc tăng lên và khả năng khủng hoảng nếu như người già không đủ sức chi trả lúc nghỉ hưu. |
Chính phủ | Nhật là nước dân chủ, những cũng là nước với thể chế độc đảng suốt lịch sử hậu chiến. Nhiều năm qua, đảng Dân chủ Tự do Nhật (LDP) đã chiếm quyền điều hành bằng cách sử dụng tiền để làm vui lòng các đảng phái và người bầu cử. Sau vụ vỡ bong bóng năm 1990, chính phủ dùng cùng một cách mà họ vẫn dùng với các dự án cơ sở hạ tầng lớn - các cầu và trường học được xây dựng ở bất cứ nơi nào có lợi ích chính trị. Trong bối cảnh người dân ngày càng trở nên khó chịu với sự đình trệ kinh tế, đảng LDP đã phải nhường chỗ cho một hệ thống cạnh tranh giữa đa đảng thực sự. Tuy nhiên, cũng phải đến năm 2009 phe đối lập mới thực sự có một cuộc thắng lợi qua tuyển cử lần đầu tiên. Nguồn: BBC |
Trung Quốc là nước theo thể chế độc đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc không cho phép một chỉ trích hay sự đối lập nào xảy ra. Thiếu vắng sự giám sát và cân bằng đã dẫn đến nạn tham nhũng ăn sâu và sự phẫn uất từ công chúng với những quyền lợi đặc biệt mà những người cầm quyền được hưởng. Khoảng cách thu nhập của Trung Quốc cao ở mức báo động, có thể cao bằng Mỹ. Quyền lực của Trung ương Đảng cũng hết sức hạn chế. Chính phủ Trung Quốc được vận hành bởi Ủy ban thường vụ, đại diện cho những nhóm lợi ích khổng lồ, từ thành viên các gia đình quyền lực và những phe phái kiểm soát phần lớn tài sản quốc giám, theo một tin cáp của sứ quán Mỹ đăng trên Wikileaks. Kích cỡ địa lý khổng lồ của Trung Quốc và sự thiếu minh bạch trong hệ thống cũng đồng nghĩa với việc chính phủ trung ương bị giới hạn trong việc kiểm soát hoạt động của chính quyền địa phương ở cấp tỉnh. |
No comments:
Post a Comment