Thủy điện Việt Nam đi “ngược chiều” thế giới
Kỳ 1
03/12/2012 3:10Vì tránh gia tăng thêm chi phí, các nhà đầu tư đã cố tình bỏ quên thiết kế âu tàu cho các dự án thủy điện.
Khi thiết kế thủy điện Hòa Bình, các chuyên gia Liên Xô đã đặt vấn đề làm âu tàu, nhưng sau đó Việt Nam bỏ qua hạng mục này - Ảnh: Ngọc Thắng |
Cắt đứt giao thông thủy
Trên thế giới, âu tàu là giải pháp tối ưu tại những chỗ có độ dốc
dòng chảy lớn bị ngăn lại bởi các đập thủy điện. Theo TS Bùi Trung Dung,
Cục phó Cục Giám định nhà nước về chất lượng công trình xây dựng (Bộ
Xây dựng), các đập thủy điện trên thế giới đều thiết kế thêm bộ phận âu
tàu tại hông bên trái hoặc bên phải của đập để tàu thuyền vẫn có thể đi
lại. Thủy điện lớn nhất thế giới tính đến thời điểm này là đập Tam Hiệp
(Trung Quốc) cũng thiết kế một âu tàu 5 cấp.
|
Nhưng ở Việt Nam, bộ phận quan trọng này lại bị cố tình bỏ quên. Nói
cố tình là bởi, cách đây 30 năm khi làm thủy điện Hòa Bình, các chuyên
gia Liên Xô đã đặt vấn đề thiết kế âu tàu, nhưng, theo TS Dung, để tiết
kiệm chi phí nên Việt Nam đã bỏ qua hạng mục này. Sau đó, các thủy điện
đều cố tình “lãng quên” âu tàu trong thiết kế.
Theo PGS-TS Nguyễn Văn Giáp, bộ môn Cảng - đường thủy ĐH Xây dựng,
Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc với mật độ lớn vào bậc nhất thế
giới (2-4 km/km2), với 40.900 km sông kênh có thể khai thác cho giao
thông thủy nội địa. Trong khi các thủy điện lớn đều nằm dọc theo các
tuyến sông lớn như sông Đà, sông Chảy, sông Gấm, sông Cả, sông Chu, sông
Mã, sông Ba, sông Đồng Nai... có tiềm năng rất lớn để khai thác giao
thông thủy trong tương lai. “Rõ ràng đắp đập làm thủy điện, cột nước
được tăng, song lại không có âu qua đập đã tạo ra nghịch cảnh trớ trêu,
cắt đứt giao thông thủy xuyên suốt trên dòng sông, khiến nhiều tỉnh miền
núi mãi không có một mạng lưới giao thông thủy”, TS Giáp nhìn nhận.
Còn theo TS Bùi Trung Dung, hơn 6.000 đập lớn nhỏ trên cả nước, đều
không có âu tàu để khai thác vận tải đường thủy và bảo vệ nguồn lợi thủy
sản. “Gần đây nhất là Nhà máy thủy điện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) chỉ sử
dụng cột nước cao 7 m để phát điện. Các tổ máy phát điện nằm ngay tại
lòng sông đã cắt đứt một dòng sông. Điều đáng ngạc nhiên là vận tải
đường sông và nguồn lợi thủy sản ở đây là nguồn sống duy nhất của những
người dân rất nghèo, vậy mà lãnh đạo địa phương vẫn không hề hay biết?
Các cơ quan nhà nước khi đánh giá tác động môi trường cũng không biết?
Thiệt hại này chắc chắn sẽ không nằm trong phương án đền bù của các cấp
chính quyền”, ông Dung nêu vấn đề.
Tương lai gánh hậu quả
|
Dẫn lại câu chuyện nước Mỹ đã phải phá hủy một đập thủy điện, vì công
trình này khiến giống cá hồi không đi ngược lên được, TS Bùi Trung Dung
nhấn mạnh phát triển bền vững thủy điện không chỉ là việc quy hoạch,
cắt giảm các dự án lấy nhiều đất rừng, gây tác động lớn đến môi trường,
mà quan trọng hơn là các sai lầm nghiêm trọng trong vấn đề thông dòng
chảy của các con sông cần được khắc phục ngay. Không thể để các chủ đầu
tư vì sợ tốn tiền làm âu tàu mà người dân và đất nước phải gánh chịu hậu
quả về lâu dài trong tương lai.
Theo PGS-TS Nguyễn Văn Giáp, đúng ra các thủy điện lớn bắt buộc phải
làm âu tàu, nhưng việc này đã không được lãnh đạo Bộ Công thương, Bộ
NN-PTNT, Bộ Xây dựng cũng như cơ quan tư vấn thiết kế quan tâm. Vì vậy,
tất cả các thủy điện lớn, vừa xây dựng mới cần phải bổ sung thêm phần
thiết kế và xây dựng âu tàu. Với các thủy điện đã xây dựng, việc khắc
phục làm thêm âu tàu, có thể cải hoán thêm vào hông bên trái hoặc hông
bên phải của đập thủy điện, chi phí làm cũng không cao so với chi phí
làm đập, nhà máy. Ngoài ra, với 40.900 km đường sông tự nhiên, chưa được
nối với nhau cũng cần phải có hệ thống âu tàu để lưu thông từ sông nọ
sang sông kia.
Mai Hà
Thủy điện Việt Nam đi “ngược chiều” thế giới
- Kỳ 2: Hai không
04/12/2012 3:20Nhiều dự án thủy điện không có đủ các quy chuẩn cần thiết; trong khi cơ quan quản lý không kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
Thủy điện Sông Tranh 2 không có cửa xả đáy - Ảnh: Hoàng Sơn |
Không cửa xả đáy
Theo kết quả thanh tra các hồ, đập thủy điện vừa và nhỏ mới đây của
Thanh tra Bộ Tài nguyên - Môi trường (TN-MT), hầu hết không có công
trình bảo đảm dòng chảy tối thiểu, một số công trình không thiết kế cống
xả đáy, nên khi sự cố xảy ra đã không thể xả nước theo yêu cầu. Tại
tỉnh Quảng Nam - điểm nóng thủy điện - hầu hết các đập đã và đang được
xây dựng trên vùng đầu nguồn đều không có cửa xả đáy sâu. Với công trình
Đăk Mi 4, chỉ khi chính quyền Đà Nẵng và các huyện phía hạ lưu tỉnh
Quảng Nam phản đối kịch liệt, chủ đầu tư mới bổ sung thêm cửa xả đáy để
trả lại dòng chảy tối thiểu về lại dòng Vu Gia.
|
Trước đó, trả lời báo chí trong một cuộc họp tại Bộ Công thương, ông
Cao Anh Dũng, Phó cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và môi trường công
nghiệp, cho rằng việc có hay không cửa xả đáy là do thiết kế của thủy
điện. Ở Việt Nam hiện có mấy trăm thủy điện nhưng chỉ có các thủy điện
lớn có cửa xả đáy là Hòa Bình và Sơn La. Cũng theo ông Dũng, việc thêm
cửa xả đáy vào hồ thủy điện thì “thêm một chi tiết càng thêm nguy cơ mất
an toàn. Đập thủy điện cố gắng giảm thiểu các thiết bị bên trong thân
đập và càng giảm bao nhiêu thì càng an toàn bấy nhiêu”.
Tuy nhiên, theo GS-TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi,
vì lợi nhuận nên nhiều chủ đầu tư, tư vấn thiết kế đã không thiết kế cửa
xả đáy, để “bắt” nước phải về qua đập thủy điện. “Trên nguyên tắc tất
cả các đập thủy điện lớn, nhỏ đều phải thiết kế cửa xả đáy, để khi có
nguy cấp thì xả đáy cứu đập. Hoặc thông thường vài năm cũng phải xả một
lần để xả bớt cát trong lòng hồ. Việc không thiết kế cửa xả đáy là sai,
ảnh hưởng rất lớn đến an toàn đập”, ông Hồng nói. Dẫn ra ví dụ thủy điện
Sông Tranh 2, ông Hồng cho rằng vì không có cửa xả đáy nên phía trên
thượng lưu của thân đập luôn tồn tại một khối lượng nước rất lớn, tạo ra
nguy hiểm cho thân đập.
Việc chủ đầu tư và tư vấn thiết kế cố tình “quên” cửa xả đáy không
khó hiểu. Ngoài việc tiết giảm chi phí xây dựng, không có cửa xả đáy còn
giúp dung tích hồ chứa tăng lên. Đơn cử như Sông Tranh 2, nếu có cửa xả
đáy thì dung tích hồ chứa chỉ còn 250 triệu m3 nước, nhưng không có cửa
xả đáy thì dung tích đến 450 triệu m3 nước. Theo TS Đào Trọng Tứ, việc
không có cửa xả đáy là khiếm khuyết trong thiết kế. Trong trường hợp lũ
lớn vượt quá cường suất thiết kế, sẽ phải mở xả trên (qua tuốc bin) và
cả xả đáy, nếu không thì dưới hạ du sẽ phải gánh đủ.
|
Các quy định về an toàn đập hiện nay đều đang giao phó hoàn toàn cho
chủ đầu tư. Theo thông tư quy định về việc quản lý an toàn đập thủy điện
được Bộ Công thương ban hành tháng 10.2010, việc nghiệm thu để đưa công
trình vào khai thác sử dụng đập do chủ đầu tư quyết định, trừ các đập
lớn do Hội đồng nghiệm thu nhà nước thực hiện.
Theo TS Bùi Trung Dung, Cục phó Cục Giám định nhà nước về chất lượng
công trình xây dựng (Bộ Xây dựng), về nguyên tắc, chủ đầu tư chịu trách
nhiệm với sản phẩm mình làm ra. Nếu không đủ năng lực, chủ đầu tư phải
thuê các đơn vị tư vấn thiết kế và các tổ chức thẩm định độc lập. Nhưng
để bớt chi phí, nhiều nhà đầu tư đã kiêm luôn cả ba chức năng là chủ đầu
tư, tư vấn thiết kế và giám sát (thông qua việc lập nên các công ty
khác nhau). Nhưng trong thực tế, theo ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp
hội Năng lượng Việt Nam, nhiều chủ đầu tư tư nhân thậm chí không hề có
kinh nghiệm làm thủy điện.
Trong khi đó, cơ quan quản lý giám sát gần nhất với các thủy điện nhỏ
hiện nay theo phân cấp là các Sở Công thương lại chưa đủ năng lực, hoặc
do bộ máy không đủ nhân lực để đảm nhận nhiệm vụ giám sát quản lý với
an toàn các đập trên địa bàn. Dẫn lại câu chuyện vỡ đập Đăk Mek 3, ông
Bùi Trung Dung cho rằng sai sót lớn nhất về mặt quản lý nhà nước là Sở
Công thương đã thiếu theo sát kiểm tra tiến độ dự án, dẫn tới “bỏ lọt”
con đập dài hơn 100 m đã được thi công rất ẩu.
Trả lời câu hỏi trong một tháng xảy ra hai sự cố công trình thủy điện
tư nhân có cho thấy việc cấp phép thủy điện đang có vấn đề hay không,
tại cuộc họp báo chiều 3.12, ông Lê Tuấn Phong, Tổng cục phó Tổng cục
Năng lượng (Bộ Công thương), cho rằng việc lập quy hoạch thủy điện trên
địa phương do UBND tỉnh gửi Bộ Công thương thỏa thuận, sau khi thống
nhất thì địa phương phê duyệt với các công trình có công suất dưới 30
MW. Việc đánh giá tác động môi trường do các sở và UBND tỉnh thực hiện,
trong quá trình xây dựng, chủ đầu tư có tuân thủ không là trách nhiệm
của UBND tỉnh.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc phân cấp cho địa phương được cấp
phép và quản lý với dự án thủy điện nhỏ, trong khi nhiều địa phương lại
thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm, nhân lực quản lý khiến chất lượng
các dự án thủy điện đang bị thả nổi. Khi sự cố xảy ra, quả bóng “trách
nhiệm” lại bị đá lòng vòng. Ông Trần Viết Ngãi cho rằng, cần sớm hạn chế
tối đa và tiến tới chấm dứt không cho làm thủy điện nhỏ và vừa.
Mai Hà
Từ: http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20121203/Thuy-dien-Viet-Nam-di-nguoc-chieu-the-gioi.aspx
No comments:
Post a Comment