Công
 trình xây dựng có nhà thầu Trung Quốc thường luộm thuộm, mất an toàn. 
Người dân buôn bán với thương lái Trung Quốc quen dần với thói gian dối,
 làm hàng chất lượng kém...
Câu chuyện quan hệ thương mại - đầu tư Việt Nam - Trung Quốc được nhìn 
dưới một góc độ khác trong hội thảo "Tự chủ kinh tế trong một thế giới 
phụ thuộc lẫn nhau" do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) 
tổ chức ngày 3/7.
Trong tổng số 62 dự án xi măng triển khai theo hình thức BOT, có 49 dự 
án do Trung Quốc làm tổng thầu. Tương tự, tại 27 dự án nhiệt điện diện 
BOT, có 16 do Trung Quốc làm tổng thầu. Theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh 
nghiệp cơ khí Việt Nam - Nguyễn Văn Thụ, hầu hết các dự án đều chậm tiến
 độ từ 3 tháng đến 3 năm, chất lượng thiết bị không đồng đều... 
|  | 
| 
Nhiều dự án của Việt Nam do Trung Quốc làm nhà thầu thi công. Ảnh: Petrotimes | 
Theo vị này, khi các nước phát triển làm tổng thầu tại Việt Nam, thầu 
phụ cơ khí trong nước sẽ được giao khoảng 15-20% giá trị công trình, qua
 đó có điều kiện đầu tư thêm công nghệ, rèn luyện tay nghề. Ngược lại, 
tổng thầu Trung Quốc sẽ nhận hết, trong khi việc quản lý công trình của 
bản thân họ cũng còn nhiều luộm thuộm. "Năm 2002, Việt Nam nhập siêu từ 
Trung Quốc chỉ một tỷ USD, 10 năm sau, con số này đã lên trên 20 tỷ USD,
 trong đó một nửa là nhập siêu nhóm thiết bị", ông này thông tin.
Cũng theo chuyên gia, bên cạnh mối quan hệ giúp các hãng Trung Quốc 
"loại" nhiều đối thủ từ trước khi đấu thầu, vấn đề giá chính là yếu tố 
quyết định giúp họ giành được nhiều dự án tại Việt Nam. "Cả thế giới 
phải thua Trung Quốc nếu xét về giá", ông Thụ bày tỏ trong bối cảnh Luật
 đầu thấu của Việt Nam còn ưu tiên các nhà thầu bỏ giá thấp, chưa quan 
tâm đến nguồn gốc xuất xứ về chất lượng thiết bị.
Không chỉ có đấu thầu, trong mối quan hệ thương mại, lãnh đạo Hiệp hội 
Rau quả Việt Nam cũng phản ánh thời gian dài vừa qua người nông dân Việt
 Nam bị đối xử không công bằng.
Đối với xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp sống dở chết dở do nguồn nguyên 
liệu bị Trung Quốc thao túng. Thương nhân nước này tập cho người nông 
dân và thương lái Việt Nam cách làm ăn cẩu thả, gian dối, đi vào chất 
lượng thấp, sử dụng nhiều hóa chất độc hại. Khi Trung Quốc không mua nữa
 thì với chất lượng hàng hóa đó cũng không thể bán vào thị trường khác.
Còn đối với nhập khẩu, nông sản từ Trung Quốc có dư lượng chất hóa học 
rất cao, trong đó có những hóa chất cấm, gây tổn hại sức khỏe của người 
dân. Việc nhập khẩu nông sản từ Trung Quốc đã gây áp lực lớn nên nông 
sản Việt do giá thấp, dù chất lượng kém và không an toàn.
Trước vấn đề này, chuyên gia Lê Đăng Doanh kiến nghị cần phải có sự 
giám sát mạnh mẽ từ phía cơ quan quản lý và có hàng rào kỹ thuật để ngăn
 chặn hàng Trung Quốc độc hại tràn vào Việt Nam hay những dự án có chất 
lượng thấp. "Mở cửa thị trường không phải mở thông thống ra mà phải có 
rào cản kỹ thuật, chặn các tác động độc hại", ông Doanh nói.
Hiệp hội Cơ khí cũng kiến nghị Chính phủ cần có biện pháp giám sát, 
kiểm tra, chế tài việc nhiều dự án trọng điểm quốc gia như nhiệt điện, 
khai khoáng, xi măng do nhà thầu Trung Quốc thực hiện mà không tạo điều 
kiện cho thầu phụ Việt Nam. Theo ông Thụ, trước biến động ở Biển Đông, 
Hiệp hội đã gửi báo cáo lên Chủ tịch nước và Thủ tướng đề nghị cho chủ 
trương kiểm tra lại toàn bộ các dự án công nghiệp do Trung Quốc đang thi
 công dở dang để huy động lực lượng trong nước kết hợp với các nhà thầu 
nước ngoài khác hoàn chỉnh các dự án này.
"Đây là một thách thức lớn song cũng là cơ hội để các nhà thiết kế và xây lắp trong nước vượt lên chính mình", ông nhấn mạnh.
Trong khi đó, việc Việt Nam vẫn là nước nhỏ và chưa quyết định nhiều về
 giá, các chuyên gia cho rằng phải có chính sách để tự bảo vệ mình. Cụ 
thể, theo ông Doanh, đa dạng hóa thị trường là yếu tố tiên quyết. Vị này
 lấy dẫn chứng các quốc gia trên thế giới đa số không để nhập khẩu từ 
một thị trường vượt quá 8% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong khi đó, Việt 
Nam hiện đang nhập 40-50% nguyên liệu dệt may từ Trung Quốc.
Với nông sản, Hiệp hội Rau quả cho rằng cần xúc tiến và quảng bá những 
thế mạnh của trái cây Việt Nam nhiều hơn nữa và tập trung chuyên canh 
những vùng trái cây ngon có chất lượng để xuất khẩu số lượng lớn.
Cụ thể, hiện nay việc tiêu thụ thanh long rất khó khăn vì Trung Quốc 
chiếm 90% tổng lượng thanh long xuất khẩu. Dù các thị trường Ấn Độ, 
Bangladesh rất có tiềm năng để thay thế thị trường Trung Quốc, nhưng họ 
không biết thanh long là trái gì, do vậy cần Hiệp hội, Nhà nước, Đại sứ 
quán tiến hành tổ chức những ngày thanh long để quảng bá. Tương tự, mặt 
hàng vải của Việt Nam còn khá mới lạ với một số nước châu Âu, thậm chí 
một số nước lân cận như Singapore, Malaysia, Indonesia đều bán vải của 
Trung Quốc với giá rẻ hơn.
"Trong một thế giới phụ thuộc, Việt Nam có các quyết định tự bảo vệ 
mình, chủ động, tích cực hội nhập và chấp nhận luật chơi", chuyên gia Lê
 Đăng Doanh thẳng thắn.
Phương Linh
Tự chủ kinh tế trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau
VOV.VN - Các chuyên gia nhận định, sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường nhất định đều có nguy cơ rủi ro khi biến động.
Trong
 bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam cần đa phương hóa, đa dạng
 hóa các đối tác, song cũng cần phải tự chủ về kinh tế. Trước diễn biến 
tình hình Biển Đông phức tạp, có thể tác động đến kinh tế, các doanh 
nghiệp Việt Nam cần có sự chủ động về sản xuất cũng như thị trường xuất 
khẩu, tránh phụ thuộc vào một thị trường hay nền kinh tế nào.
Đây là nhận định của nhiều chuyên gia 
tại Hội thảo “Tự chủ kinh tế trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau” do 
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức sáng 3/7 tại Hà 
Nội. 
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, một 
trong những nguyên tắc quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước 
ta là đa phương hóa, đa dạng hóa các đối tác nhưng phải gắn liền với 
nguyên tắc tự chủ kinh tế. Sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường nhất 
định đều có nguy cơ rủi ro khi thị trường này có biến động. 
Những con số đưa ra tại hội thảo cho 
thấy Việt Nam đang nhập siêu rất lớn từ Trung Quốc. Năm 2001, nhập siêu 
từ Trung Quốc chỉ là 210 triệu USD, nhưng đến năm 2013 nhập siêu đã tăng
 lên 21,6 tỷ, tức là tăng hơn 100 lần. Trung Quốc hiện là thị trường 
xuất khẩu nông sản, thủy sản lớn của Việt Nam. 
Bởi vậy, nếu thị trường này biến động, 
thì mức độ rủi ro lớn, gây thiệt hại cho người sản xuất và các doanh 
nghiệp. Do đó, nhiều ý kiến cho rằng, đã đến lúc cần chủ động mở rộng 
thị trường và đổi mới trong phương thức sản xuất, chế biến để tham gia 
vào nhiều thị trường khác nhau. 
Ông Vũ Huy Thủ, nguyên Phó Cục trưởng 
Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho rằng: Trước đây thị 
trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam lớn nhất là ở Trung Quốc. Nhưng 
hiện nay ngành thủy sản đang tăng cường xuất khẩu thủy sản sang các thị 
trường như Nhật Bản, các nước ASEAN và châu Âu. 
“Để không phụ thuộc thị trường Trung 
Quốc, doanh nghiệp thủy sản cũng cần thay đổi phương thức khai thác chế 
biến để đảm bảo chất lượng, có thể đưa sang các thị trường khó tính, 
tăng được giá trị xuất khẩu”, ông Thủ nói.
Mặt khác, Việt Nam cũng cần phải chủ 
động hơn nữa về nguồn nguyên phụ liệu sản xuất, tránh phụ thuộc vào một 
thị trường. Lấy ví dụ về ngành dệt may, các chuyên gia cho rằng, mặc dù 
kim ngạch xuất khẩu lớn, song vẫn chủ yếu nhập nguyên phụ liệu từ nước 
ngoài. Trong đó, nhập tới 46% vải từ thị trường Trung Quốc. 
Bà Đặng Phương Dung, Tổng thư ký Hiệp 
hội Dệt may Việt Nam cho rằng, về lâu dài để phát triển bền vững vấn đề 
nguyên phụ liệu luôn cần được cân nhắc, chưa nói đến những biến động 
tình hình Biển Đông. 
“Ngành dệt may lâu nay đặt mục tiêu tăng
 nội địa hóa bằng cách kêu gọi đầu tư vào những ngành đang yếu như dệt, 
nhuộm hoàn tất. Trong thời buổi hội nhập, phụ thuộc kinh tế lẫn nhau 
không thể nói tự túc 100%, nên phải tham gia vào chuỗi cung ứng toàn 
cầu. Khi tham gia vào chuỗi này, chúng ta luôn chủ động và sẽ có vai 
trò, lợi thế tốt hơn, giảm được nhập khẩu lớn từ Trung Quốc”, bà Dung 
nêu ý kiến.
Theo các chuyên gia, tự chủ kinh tế ngày
 nay không có nghĩa là duy trì hoặc tăng tính tự cung tự cấp, mà ngược 
lại, mỗi quốc gia và doanh nghiệp cần tích cực vào tham gia chuỗi giá 
trị toàn cầu. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày nay, sự phụ thuộc 
giữa các nền kinh tế là không tránh khỏi, nhất là khi Việt Nam lại quá 
gần với một nền kinh tế lớn như Trung Quốc. 
Các chuyên gia cũng nhận định, mặc dù 
tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, có thể tác động không nhỏ đến 
mối quan hệ kinh tế. Song, Trung Quốc không dễ ồ ạt cắt giảm 100% thương
 mại song phương với Việt Nam. Bởi quan hệ kinh tế hiện nay không còn là
 quan hệ song phương mà là đa phương. Do dó, Trung Quốc không thể xóa bỏ
 tất cả các hiệp định, cam kết quốc tế. 
Tuy nhiên, theo TS. Võ Trí Thành, Phó 
Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Việt Nam vẫn cần
 chủ động có những bước đi phù hợp để tránh được các rủi ro, đưa nền 
kinh tế phát triển ổn định, bền vững.
“Đây là thời cơ của chúng ta đẩy mạnh 
tái cấu trúc nền kinh tế, hội nhập sâu rộng, gắn với những nền kinh tế 
tốt nhất để chúng ta học hỏi. Thứ hai là đẩy nhanh ký kết các hiệp định 
thương mại đặc biệt là  hiệp định Việt Nam - EU và Hiệp định xuyên Thái 
Bình Dương (TPP) trong năm nay hoặc năm sau. Bên cạnh đó, ngoài những cơ
 chế giám sát trong điều kiện bình thường, thì cần cơ chế phản ứng nhanh
 khi có những cú sốc, rủi ro xuất hiện, gắn với trách nhiệm hành động 
cương quyết và cách ứng xử nhanh chóng, có hiệu lực”, TS. Võ Trí Thành 
khẳng định./.

 
                                
 
No comments:
Post a Comment