 J.B Nguyễn Hữu Vinh
J.B Nguyễn Hữu VinhBài giảng thánh lễ Cầu cho Quyền tự do Ngôn luận và Blogger Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh. 27/7/2014
Hôm nay, theo thông lệ, chúng ta cầu nguyện cho công lý và hòa bình. 
Chủ đề của buổi cầu nguyện hôm nay là cầu nguyện cho nhà cầm quyền Hà 
Nội tôn trọng các quyền mà Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, đã ban cho con 
người, trong đó có quyền tự do ngôn luận; cách riêng chúng ta cầu nguyện
 cho Blogger Basam Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự của ông, những nạn 
nhân mới nhất của nhà cầm quyền Hà Nội. Ông bị bắt một cách oan ức vì đã
 mạnh mẽ lên tiếng bảo vệ các quyền con người, cách riêng lên tiếng bảo 
vệ biển dảo quê hương trước nguy cơ bị xâm lược bởi người láng giềng xấu
 tính Bắc kinh.
 Thật là trùng hợp, khi ngày chúng ta cầu nguyện cho công lý và hòa 
bình, cho tự do ngôn luận đang tiếp tục bị vi phạm nghiêm trọng tại Việt
 Nam, chúng ta được phụng vụ kể lại cho nghe câu chuyện về Vua Salomon.
Thật là trùng hợp, khi ngày chúng ta cầu nguyện cho công lý và hòa 
bình, cho tự do ngôn luận đang tiếp tục bị vi phạm nghiêm trọng tại Việt
 Nam, chúng ta được phụng vụ kể lại cho nghe câu chuyện về Vua Salomon.
Trình thuật chúng ta nghe đọc hôm nay, trích trong chương 3 sách Các 
Vua quyển I. Sau khi kế vị Vua cha là Đa-vít, sau khi bình yên các phe 
phái chống đối, Salomon – lúc đó ông khoảng 20 tuổi, đã tới Gíp-ôn để 
dâng lễ tế Thiên Chúa. Đêm hôm đó, ông  được Chúa hiện ra trong mộng và 
hứa sẽ ban cho ông điều ông xin. Thật lạ lùng, trong tư thế một vị Vua 
còn non nớt, trẻ trung, thiếu kinh nghiệm, Salomon đã không xin cho mình
 “được sống lâu, hay giầu sang, cũng không xin thắng được kẻ thù”, nhưng
 ông đã xin cho mình một “tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân và một 
tâm hồn biết phân biệt phải trái”. Chính vì lời xin này mà Đức Chúa đã 
khen ông rằng “trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng và sau ngươi cũng 
không có ai bì kịp” và Thiên Chúa đã ban cho ông cả những điều ông không
 xin.
Chúng ta biết, trong lịch sử dân Do Thái, không có triều đại nào 
cường thịnh như triều đại của Vua Salomon, đến nỗi, Nữ hoàng Sa-ba đã 
phải đến học hỏi sự khôn ngoan của ông. Nhiều công trình  kiến trúc văn 
hóa còn được lưu truyền sử sách tới tận bây giờ.
Chúng ta tự hỏi, điều gì đã làm nên một Salomon, làm nên một đế chế, một triều đại Salomon hùng mạnh? Kinh thánh cho chúng ta câu trả lời “vì Salomon đã không xin giầu sang, xin binh hùng tướng mạnh, nhưng ông đã xin cho mình biết lắng nghe Chúa, lắng nghe dân để cai trị dân và biết phân biệt đúng sai để thi hành”
Thật là đẹp! Thật khôn ngoan! Chúng ta biết, trong Thánh kinh, linh 
đạo lắng nghe là một linh đạo vừa cũ vừa luôn mới mẻ. Con người phải 
biết nghe theo Thượng đế, nghe tiếng nói của Người trong tạo thành, 
trong các trật tự của tự nhiên, đặc biệt là nghe theo tiếng lòng của dân
 chúng. Người lãnh đạo phải biết nghe dân và yêu dân, nhờ đó họ mới trở 
thành người lãnh đạo tốt.
Có thể nói, theo cái nhìn của Kinh thánh, đối với một người lãnh đạo 
nói chung, dù là lãnh đạo một gia đình, lãnh đạo một nghiệp đoàn, lãnh 
đạo một nhóm hay rộng hơn là lãnh đạo một đất nước, điều căn bản và quan
 trọng làm nên sự thành công đó chính là người ta phải biết lắng nghe và
 biết phân biệt phải trái, đúng sai: lắng nghe trời, người, lắng tiếng 
gọi của giang sơn, gấm vóc, tiếng gọi của quê hương, hay tiếng than van 
của dân chúng, để đọc ra những dấu chỉ thời đại, nhờ đó mà có những cách
 hành động thích hợp để xây dựng một gia đình, một tổ chức, một thể chế 
vững mạnh.
Tuy nhiên, chúng ta biết, để có thể lắng nghe điều quan trọng phải 
biết tôn trọng người khác. Nói cách khác, việc lắng nghe đòi người lãnh 
đạo phải tôn trọng các quyền cơ bản của người dân trong đó có quyền tự 
do ngôn luận. Có thể nói, một quốc gia hùng mạnh, phát triển là một quốc
 gia trong đó các quyền của con người được bảo đảm và người dân được tự 
do bày tỏ những quyền cơ bản ấy trong trật tự công ích và trong những bó
 buộc của luật tự nhiên.
Đối với Giáo hội Công giáo chúng ta, bảo vệ các quyền con người là một bổn phận và trách nhiệm quan trọng, đến độ:
“Những hành động cố ý vi phạm nhân quyền và các nguyên tắc phổ 
quát của nhân quyền, cũng như các lệnh truyền thi hành các hành động ấy,
 đều là tội ác. Chấp hành mệnh lệnh cách mù quáng không đủ để  bào chữa 
cho những ai tuân hành các lệnh đó. Do đó, việc tiêu diệt một dân tộc, 
một quốc gia hoặc một nhóm thiểu số phải bị kết án như một tội trọng. 
Luân lý đòi chúng ta phải chống lại các mệnh lệnh diệt chủng” (Số 2313, Sách Giáo lý Công giáo).
Công Đồng Vatican II, trong Hiến chế Ánh sáng Muôn dân (Gaudium et 
Spes) đã mạnh mẽ lên án những hành vi kỳ thị con người và coi đó như 
hành vi chống lại ý định Thiên Chúa. Công đồng viết: “Mọi hình thức 
kỳ thị liên quan tới các quyền căn bản của con người, dù dựa trên phái 
tính, chủng tộc, màu da, điều kiện xã hội, ngôn ngữ hoặc tôn giáo, đều 
phải vượt qua và bãi bỏ, như là trái với ý định của Thiên Chúa” (29.2)
Cũng vậy, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II, trong bài diễn văn 
đọc tại Hội thảo Quốc tế về Nhân quyền, do Hội đồng Giáo hoàng “Công lý 
và Hòa bình” tổ chức tại Roma từ ngày 14-16/11/1988, đã mạnh mẽ nhắc nhở
 các tín hữu phải hành động để đề cao phẩm giá con người. Ngài viết: “Dù
 ở vùng đất nào, hay nền văn hóa nào, thì người ta cũng đều ý thức rằng 
kỳ cùng giá trị quý giá nhất, đó là con người. Con người đáng trọng như 
thế vì nó có khả năng về tự do…Các xã hội có bổn phận thực thi nhân 
quyền, vì sự cao cả của con người phát sinh do việc Thiên Chúa, là Đấng 
tạo dựng, đã yêu thương con người đặc biệt, khi cho nó “làm người thợ 
chính để hoàn thành chính mình hoặc tự chuốc lấy thất bại (Đức Phao-lô VI, Thông điệp Phát triển các Dân tộc, số 15).
 Giáo hội cho rằng, sứ mệnh thiết yếu của mình là tuyên dương phẩm giá 
con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Giáo hội biết rằng
 con người đó được Chúa yêu thương đến nỗi Chúa Giê-su đã đến cứu chuộc.
 Vì thế, Ki-tô hữu nhất thiết phải hành động để đề cao phẩm giá mà con 
người tiếp nhận được nơi Đấng tạo hóa, và hiệp lực với người khác để bảo
 vệ và thăng tiến phẩm giá con người.”
Trong Thông Điệp Hòa Bình trên Trái đất, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan 
XXIII,  kể ra tất cả những quyền cơ bản mà Thượng đế hay Tạo hóa ban cho
 con người, cũng là những quyền được nhắc tới trong Tuyên ngôn quốc tế 
về Nhân quyền, được Liên Hiệp Quốc Ban hành năm 1948, trong đó, ngài 
viết: “Ai cũng có quyền được người khác tôn trọng nhân phẩm, thanh 
danh, quyền được tự do đi tìm chân lý, và trong phạm vi trật tự luân lý 
và công ích cho phép, được tự do phát biểu ý kiến, phổ biến tư tưởng, 
theo đuổi bất cứ nghệ thuật nào, và sau hết, được quyền theo dõi tin tức
 một cách khách quan” (số 3)
Kính thưa cộng đoàn,
Trong một khoảng thời gian hết sức eo hẹp của ngày lễ hôm nay, chúng 
ta không thể nói hết được mọi khía cạnh phong phú, thiêng liêng của “các quyền mà Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa ban cho con người” Chúng tôi chỉ xin gợi lại ở đây một chút nào đó lời dạy của Giáo hội về trách nhiệm và bổn phận của mỗi chúng ta “phải dấn thân và lên tiếng bảo vệ các quyền của con người”,
 trong đó có các quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận; đặc biệt, trách 
nhiệm của mỗi giáo dân chúng ta trong việc bảo vệ những người vì bảo vệ 
các quyền của con người mà bị bắt giam cách trái pháp luật như anh Basam
 Nguyễn Hữu Vinh và rất nhiều các tù nhân lương tâm khác.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo Việt 
Nam, như Salomon, biết lắng nghe dân để lãnh đạo dân và biết phân biệt 
phải trái, để cùng người dân phụng sự tổ quốc và dân tộc. Chúng ta cầu 
nguyện cho họ, hãy từ bỏ con đường sai lầm đầy sự hoang tưởng của chủ 
nghĩa cộng sản, để quay về với nhân dân với tổ quốc với đồng bào.
Ngày hôm nay chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các liệt sĩ, các
 thương binh, những người đã vì lý tưởng và tự do, dù họ thuộc phe phái 
nào, đã ngã xuống với ước vọng bảo vệ tổ quốc; đặc biệt các liệt sĩ đã 
hy sinh tại Hoàng sa và Trường sa, các người mẹ già mất con đang sống cô
 quạnh những năm tháng cuối đời, xin cho tất cả được an ủi.
Còn đối với tất cả chúng ta đang hiện diện nơi đây, chúng tôi xin 
mượn lại lời của Đức cố Hồng y Désire Mercier, một triết gia, giáo sư 
Đại học Louvain, sau là Tổng Giám mục. Ngài trở thành nhà ái quốc và là 
điểm liên kết dân Bỉ trong chiến tranh. Giữa đống đổ nát của cuộc chiến,
 ngài đã viết một lá thư mục vụ gửi các tín hữu, để nói về những gì cần 
phải làm nhằm tái thiết đất nước. Ngài đã viết: “Điều đầu tiên trong
 những điều đầu tiên, đó là, mỗi ngày anh chị em hãy nhắm mắt lại và 
bước vào cung thánh linh hồn đã được thanh tẩy của anh chị em, hãy lắng 
nghe và nhận ra rằng, ở đó Thiên Chúa đang cư ngụ” (TGM Timothy Dolan, Bỏ Thầy Chúng con biết theo ai? Lm. Giuse Nguyễn Văn Chữ, O.P. dịch, tr. 25), bởi vì “Khi
 Thiên Chúa vắng mặt, thế giới sẽ hoang tàn, và mọi sự trở nên bất an, 
và tất cả đều hoàn toàn không mang lại sự mãn nguyện. Ngày nay, người ta
 thấy rõ rằng, một thế giới không Thiên Chúa sẽ kiệt quệ, sẽ trở thành 
một thế giới hoàn toàn thiếu vắng niềm vui.” (Hồng y Ratzinger, Muối cho Đời, Cerf 1997, tr. 32).
Thiết nghĩ, muốn thoát Trung, thoát Cộng, thì căn bản và quan trọng nhất là “thoát Tôi” để đi tới cái “Chúng ta” trong Chân lý.
- Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R.
Thánh lễ cầu nguyện cho Quyền tự do ngôn luận và Anh Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh
Trước ngày Trung Cộng đưa giàn khoan khổng lồ vào thềm lục địa Việt 
Nam như vào chỗ không người, nhà cầm quyền CSVN đã kịp thời bắt giam một
 Blogger nổi tiếng: Ông Nguyễn Hữu Vinh (tức là Anh Ba Sàm) – Người đã 
từng đặt lên hàng đầu các hoạt động của mình những tâm huyết về việc bảo
 vệ lãnh thổ của Tổ Quốc, quyết không khoan nhượng với bọn cướp nước và 
bán nước.
Cũng như nhiều người đã bị bắt vì điều luật 258 quái gở mà nhân loại 
đang lên án, ông Nguyễn Hữu Vinh – Ba Sàm – cũng bị khởi tố vì “Tội lợi 
dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi 
ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Người ta tự hỏi: Ở Việt Nam đã có 
quyền tự do dân chủ rồi sao? Làm sao có thể lợi dụng một cái mà người ta
 chưa thấy? Chứng minh ư? Chỉ riêng điều luật quái gở này đã là minh 
chứng hùng hồn rằng cái gọi là “Quyền tự do, dân chủ” chưa hề tồn tại.
Blogger Ba Sàm (Nguyễn Hữu Vinh) và J.B Nguyễn Hữu Vinh tại lễ cầu siêu cho ông Lê Hiếu Đằng
Thật khôi hài trong những vụ án kiểu này. Ở những vụ án đó, người dân biết vì sao nạn nhân bị bắt, lý do gì để chịu án, chịu tù đày, còn tội ư? Đơn giản thôi, những điều luật vô hình, vô tượng, chung chung và trừu tượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự suy diễn của nhà cầm quyền thì khi nào cũng có thể vận dụng để đưa công dân vào tù.
Cho đến nay, việc bắt giữ đã kéo dài 4 tháng, nhưng vụ án như rơi vào
 một ngõ cụt, những thông tin về nạn nhân cứ như hũ nút, cứ ngỡ như là 
nếu hở ra, thì có thể quả đất nổ tung. Tự do ngôn luận đã bị bóp nghẹt 
mặc do những lời kêu la, những điều vô lý cứ ngang nhiên tồn tại và 
những kiến nghị, phản đối của xã hội, của thế giới, nhà cầm quyền Việt 
Nam vẫn cứ như bị điếc. Việc bắt cứ bắt, việc giam cứ giam không cần 
biết công luận, chẳng cần biết lòng dân – Một cách hành xử điển hình 
trong mọi chế độ độc tài.
Trước tình hình đó, Giáo hội Công giáo Việt Nam với chức năng ngôn sứ
 của mình, đã cất nhiều tiếng nói, nhiều hành động để lên tiếng cho 
những quyền cơ bản của con người. Nhưng dường như tất cả đều bị hội 
chứng “cùn, điếc” bỏ qua.
Tối nay, tại nhà thờ Giáo xứ Thái Hà, giáo xứ đã tổ chức Thánh lễ và 
thắp nến cầu nguyện cho Quyền tự do ngôn luận đang bị chà đạp và đặc 
biệt là cầu nguyện cho ông Nguyễn Hữu Vinh ( Anh Ba Sàm) là nạn nhân mới
 nhất dám cất lên tiếng nói của mình.
Thánh lễ trang nghiêm được cử hành vào hồi 20h với khoảng 4000 giáo 
dân Thái Hà và nhiều nơi quy tụ về tham dự. Tham dự Thánh lễ còn có 
nhiều nhân sĩ, trí thức, anh chị em dấn thân đấu tranh cho dân chủ, nhân
 quyền và đặc biệt là những người yêu mến Sự thật – Công lý không phân 
biệt tôn giáo hay thành phần.
Cử hành Thánh lễ và trong bài giảng của mình, linh mục Gioan Nguyễn 
Ngọc Nam Phong đã nêu bật những nguyên lý, giáo lý của Giáo hội qua các 
thời kỳ luôn bảo vệ những quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có 
quyền tự do ngôn luận. Linh mục cũng nêu rõ trách nhiệm của mọi giáo dân
 là phải cất lên tiếng nói của mình, ủng hộ những người có tiếng nói cho
 mọi người, để ánh sáng sự thật được soi tỏ.
Sau thánh lễ, một cuộc thắp nến thật sốt mến và cảm động đã được tiến
 hành, hàng ngàn ngọn nến đã được thắp sáng  theo lời cầu nguyện dâng 
lên Thiên Chúa, xin cho những quyền cơ bản của con người được thực thi, 
cầu nguyện cho những nạn nhân trong chốn tù đày được thấy ánh sáng công 
lý. Buổi cầu nguyện cũng cầu cho nhà cầm quyền Hà Nội biết tôn trọng 
những quyền con người của công dân, biết lắng nghe tiếng  nói của người 
dân khi lãnh đạo đất nước.
Trong Thánh lễ và trong buổi thắp nến, giáo dân cũng đã dâng lời cầu 
nguyện cho các Thương Binh, Liệt sĩ không kể từ chế độ nào, những người 
đã hi sinh thân mình và xương máu cho quyền độc lập, tự do của Tổ Quốc 
và quyền được sống của con người Việt Nam.
Thân nhân của Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh là bà Lê Thị Minh Hà đã nói 
lên sự xúc động của mình về sự quan tâm của cộng đồng Dân Chúa nói chung
 và các đấng bậc trong Giáo hội cũng như các nhân sĩ, trí thức đối với 
chồng bà, người đã dấn thân cho tiếng nói của sự thật được thực hiện.
Hà Nội, Ngày 27/7/2014
- B Nguyễn Hữu Vinh
















 
No comments:
Post a Comment