13:56 | 15/07/2014
Sẽ thu hồi 30-40% diện tích nông lâm trường quốc doanh
(Baodautu.vn) Thứ trưởng
Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn khẳng định, có khoảng 30-40% diện tích đất
nông lâm trường quốc doanh sẽ bị thu hồi và giao lại một phần cho các DN
dân doanh.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn |
Sáng 15/7 tại Hà Nội, Chính phủ tổ chức Hội nghị triển khai Nghị
quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát
triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn khẳng định, những doanh nghiệp
đang quản lý và sử dụng đất có hiệu quả sẽ được giữ lại để tái cơ cấu,
còn những diện tích đất sử dụng không hiệu quả, có tranh chấp sẽ giao
lại cho địa phương quản lý theo hướng: ưu tiên giải quyết đất đai cgiao ho bà
con dân tộc tại chỗ, và cho thuê những hộ làm ăn hiệu quả, lâu
dài, cho các DN dân doanh thuê lại để sản xuất kinh doanh.
Trả lời câu hỏi liệu có giải thể những nông, lâm trường quốc doanh
không hiệu quả, Thứ trưởng Hà Công Tuấn khẳng định, Bộ NN&PTNT đang
xây dựng Dự thảo Nghị định của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát
triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp.Theo đó,
Nghị định đưa ra những tiêu chí rất rõ ràng trong sắp xếp lại các nông,
lâm trường quốc doanh.
"Theo đánh giá sơ bộ, hiện có khoảng 30-40% nông lâm trường quốc
doanh hoạt động không hiệu quả, thua lỗ cần được thu hồi. Rất có thể,
Nhà nước chỉ giữ lại 30% công ty nông, lâm nghiệp dưới dạng Nhà nước sở
hữu 100% vốn điều lệ. Các công ty nhỏ, làm ăn kém hiệu quả trong 3 năm
qua sẽ giải thể. Các công ty còn lại sẽ cổ phần hóa, nhà nước chỉ giữ
một phần vốn điều lệ hoặc thoái vốn hoàn toàn".
Theo chỉ đạo của Chính phủ, từ nay đến cuối năm, từ nay đến cuối năm,
các tổng công ty, tập đoàn kinh tế, công ty con, các địa phương phải
xây dựng kế hoạch triển khai việc sắp xếp lại.
Theo Bộ NN&PTNT, Nhà nước sẽ không giữ cỏ phần chi phối hoặc sẽ
thoái hết vốn tại các công ty trồng cây công nghiệp ngắn ngày, công ty
chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản, giống cây nông nghiệp, công ty lâm
nghiệp sản xuất giống cây lâm nghiệp... Bên canh đó, sẽ giải thể các
công ty kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ kéo dài, các công ty dang
khoán rắng, không quản lý được đất đai và sản phẩm.
Thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, hiện cả nước
có319 công ty nông lâm, nghiệp đã được sắp xếp lại, với tổng diện tích
hơn 2,78 triệu ha, không kể các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng. Trong đó có
203 đơn vị do địa phương quản lý,116 đơn vị do Trung ương quản lý.
Đáng lưu ý, trong số 319 công ty, chỉ mới 74 công ty là chuyển sang
thuê đất theo quy định của Luật đất đai với diện tích chỉ 460 ha, chiếm
16,5% tổng diện tích đang sử dụng. Phần đất đai còn lại đang được sử
dụng dưới hình thức nhà nước giao đất, không thu tiền sử dụng đất.
Tại Hội thảo về công nghệ cao gần đây, bà Thái Hương, Chủ tịch tập
đoàn TH kiến nghị, nên đánh thu tiền thuê đất với tất cả doanh nghiệp,
kể cả DN quốc doanh để tăng trách nhiệm sử dụng đất. Bên cạnh đó, nên
thu hồi diện tích đất nông lâm trường sử dụng kém hiệu quả để giao cho
các doanh nghiệp tư nhân đầu tư nông nghiệp công nghệ cao.
Phát biểu tại Hội nghị sáng nay, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh yêu cầu
phải quản lý bằng được đất đai, đất phải có chủ, có quy hoạch tổng thể
gắn với việc quản lý, sử dụng, bảo vệ phát triển rừng, tiếp tục duy trì
và hình thành vùng phát triển nông lâm nghiệp quy mô lớn.
Đọc thêm:
Sau 10 năm sắp xếp đổi mới nông-lâm trường quốc doanh: vẫn còn nhiều việc phải làm
Sau 10 năm thực hiện đổi mới NLT quốc doanh, đến thời điểm 30/6/2013 cả nước đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi mô hình tổ chức thành các công ty TNHH1TV nông-lâm nghiệp, các công ty cổ phần và các Ban quản lý rừng.
Nông
- lâm trường quốc doanh của Việt nam được thành lập từ sau năm 1954 (ở
miền Bắc) và sau năm 1975 (ở miền Nam) với nhiệm vụ chủ yếu là khai
hoang mở rộng diện tích canh tác ở những vùng đất mới và tiếp quản những
cơ sở của chế độ cũ, phát triển sản xuất nông - lâm sản hàng hoá cung
cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu kết hợp với đảm bảo an
ninh, quốc phòng ở những nơi xung yếu, vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn,
đồng bao dân tộc ít người. Trong suốt quá trình phát triển cùng với
những thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế, các NLTQD đã đáp ứng được
những yêu cầu nhất định về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng trong
từng giai đoạn lịch sử. Trong những năm tháng kinh tế còn mang nặng cơ
chế bao cấp kế hoạch hóa tập trung, nông lâm trường quốc doanh đã đảm
nhận khá tốt vai trò doanh nghiệp nhà nước, một mặt sản xuất kinh doanh
tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mang lại ích kinh tế cho nhà nước và
quan trọng hơn nhất NLT đã thực sự là công cụ giúp Nhà nước thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, hạ tầng cơ sở, bảo đảm an ninh xã
hội ở các vùng sâu vùng xa, miền núi hải đảo, vùng dân tộc ít người.
Trong số gần 500 nông lâm trường (ở thời điểm năm 2002) phân bố trên cả
nước có tới trên 70% số NLT tập trung ở các vùng khó khăn như Miền núi
phía bắc, Tây Nguyên và Trung bộ (bắc trung bộ và nam trung bộ).
1. Vài nét về quá trình đổi mới nông trường và lâm trường quốc doanh.
Trong
giai đoạn từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 cho đến đầu những năm 2000,
khi Đảng và nhà nước thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế sang
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới cơ chế quản
lí và kinh doanh của các NLT là yêu cầu tất yếu. Các NLT thậm trí còn
đảm nhận thêm vai trò là trung tâm dịch vụ vật tư, kỹ thuật, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm cho các tổ chức hộ gia đình và cá nhân sản xuất nông,
lâm nghiệp và trách nhiệm vảo vệ tài nguyên môi trường thiên nhiên. Tuy
nhiên cũng chính giai đoạn này, hệ thống NLT quốc doanh đã bộc lộ những
yếu kém, không theo kịp tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế chung
của đất nước như: Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, quản lý đất
đai/vườn cây/rừng chưa tốt… Nhận thấy những yếu kém của các NLT quốc
doanh, ngày 16/6/2003 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW
“về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc
doanh”.Để thể chế hóa Nghị quyết của Trung ương, Chính phủ đã ban hành
các Nghị định số 170/2004/NĐ-CP và 200/2004/NĐ-CP quy định về các chính
sách và giải pháp đổi mới NLT quốc doanh.
Sau
10 năm thực hiện đổi mới NLT quốc doanh, đến thời điểm 30/6/2013 cả
nước đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi mô hình tổ chức thành các công
ty TNHH1TV nông-lâm nghiệp, các công ty cổ phần và các Ban quản lý
rừng. Diễn biến quá trình sắp xếp đổi mới nông-lâm trường bao gồm:
TT
|
Trước sắp xếp (2004)
|
Kết quả thực hiện
(2012)
|
||
Số lượng
|
Số lượng
|
Cơ chế HĐ
|
||
I. Lâm trường quốc doanh
|
256
|
|||
1
|
Lâm trường
|
221
|
0
|
Luật DN
|
2
|
Công ty lâm nghiệp
|
35
|
0
|
Luật DN
|
3
|
Cty TNHHMTV
|
0
|
148
|
Luật DN
|
4
|
Công ty cổ phần
|
0
|
3
|
Luật DN
|
5
|
Ban quản lý rừng
|
0
|
91
|
ĐV SN
|
6
|
Giải thể
|
0
|
14
|
|
II. Nông trường quốc doanh
|
187
|
|||
1
|
Nông trường
|
77
|
0
|
Luật DN
|
2
|
Công ty nông nghiệp
|
94
|
2
|
Luật DN
|
3
|
Cty TNHHMTV
|
1
|
105
|
Luật DN
|
4
|
Công ty cổ phần (LD)
|
15
|
38
|
Luật DN
|
5
|
Giải thể
|
0
|
22
|
Như
vậy, nếu không tính các đơn vị sự nghiệp hình thành sau sắp xếp đổi mới
NLT quốc doanh thì cả nước hiện có 151 công ty lâm nghiệp và 145 công
ty nông nghiệp các loại. Mặc dù mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động đã
được hình thành, phù hợp với các quy định của pháp luật nhưng hệ thống
các doanh nghiệp NLN hiện nay vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần tiếp tục được
giải quyết.
2. Một số tồn tại của các doanh nghiệp hình thành sau sắp xếp đổi mới NLT quốc doanh.
Thạc sỹ: Vũ Duy Hưng - Bộ môn Thể chế Nông thôn - Viện CS&CL PTNNNT
|
Về quản lý, sử dụng đất:
Mặc
dù trong quá trình sắp xếp đổi mới (từ năm 2005 đến nay) các địa phương
và các đơn vị NLT đã tiến hành kiểm kê, rà soát lại các hình thức tổ
chức sử dụng đất đai, vườn cây, rừng theo tinh thần Nghị quyết 28. Đã có
hàng triệu ha đất được bàn giao về cho các địa phương để tái phân bổ
cho các đối tượng khác sử dụng, hàng loạt tồn tại về quản lý sử dụng đất
đã được giải quyết, song đến nay vẫn còn những vấn đề phức tạp về đất
đai NLT chưa đuwọc giải quyết triệt để
-
Các công ty nông nghiệp và các doanh nghiệp trực thuộc Bộ quốc phòng
đang quản lý tổng số 630.834 ha đất các loại, trong đó vẫn còn trên 25
ngàn ha đất chưa sử dụng; trên 30,6 ngàn ha đang có tranh chấp hoặc bị
lấn chiếm và trên 2,4 ngàn ha đang cho thuê/cho mượn;
-
Các Công ty lâm nghiệp (không kể các Ban quản lý rừng) đang quản lý
2.222,33 ha, trong đó diện tích bị lấn chiếm, xâm canh chiếm trên 7,6
ngàn ha, cho thuê/mượn gần 1000 ha và chưa sử dụng trên 50 ngàn ha.
-
Việc rà soát, cắm mốc, đo đạc lại đất đai của các công ty nông-lâm
nghiệp (nhất là các công ty lâm nghiệp) hầu như mới tiến hành trên hồ sơ
sổ sách mà chưa được thực hiện được thực hiện trên thực địa.
Nguyên
nhân chính của việc chậm trễ trong rà soát, giải quyết tồn tại về đất
đai của các công ty NLN là do thiếu kinh phí phục vụ đo đạc, rà soát,
cắm mốc giới . Mặt khác, sự phối kết hợp giữa chính quyền địa phương với
các đơn vị còn chưa thực sự chặt trẽ, còn tồn tại tâm lý né tránh khi
giải quyết các tồn tại về đât đai đã xảy ra từ những thời kỳ lịch sử
trước đây (có nguyên nhân sâu xa từ cả cách quản lý lỏng lẻo của NLT và
tiến trình chính sách-ví dụ như việc khoán gọn không đầu tư theo Nghị
định 01/CP hay giao đất chồng lấn theo Nghị định 02/CP năm 1994 và Nghị
định 163/1999-NĐ-CP).
Về tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh
Tổng
hợp số liệu báo cáo từ các đơn vị và các địa phương, tính đến đầu năm
2012, vốn chủ sở hữu của các công ty nông-lâm nghiệp là trên 21,8 ngàn
tỷ đồng, tổng vốn điều lệ xấp xỉ 10 ngàn tỷ đồng nhưng tổng số nợ của
các đơn vị này lên đến trên 22 ngàn tỷ đồng. Với số nợ lớn hơn vốn chủ
sở hữu cho thấy tình hình tài chính của các công ty NLN là đáng lo ngại,
đặc biệt là nhiều khoản nợ khó có khả năng thanh toán. Qua trao đổi với
các doanh nghiệp được biết hầu hết thiếu vốn, nhất là vốn lưu động cho
sản xuất kinh doanh, chưa có doanh nghiệp nào được cấp bổ sung vốn lưu
động theo quy định. Với khó khăn về tài chính như vậy các doanh nghiệp
NLN rất khó khăn trong việc đầu tư đổi mới thiết bị-công nghệ chế biến,
đầu tư tài canh vườn cây, đặc biệt là trồng mới rừng.
Theo
tổng hợp của Bộ tài chính vè kết quả sản xuất-kinh doanh của các công
ty NLN thì năm 2011 tổng doanh thu đạt trên 37 ngàn tỷ đồng, lợi nhuận
trên 12,4 ngàn tỷ đồng, nộp ngân sách trên 3,8 ngàn tỷ đồng. Với quy mô
đất đai, tài sản rất lớn thì kết quả kinh doanh trên đây là hết sức
khiếm tốn. Mặt khác khi xem xét kỹ cơ cấu đóng góp của các ngành thì
phần lớn lợi nhuận và đóng góp ngân sách thuộc về các doanh nghiệp ngành
cao su (khoảng 90%), các lĩnh vực khác đóng góp không đáng kể. Kết quả
báo cáo về thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp cũng cho
thấy một thực tế đáng buồn là hầu như ở mức thấp (3,8 triệu
đồng/người/tháng năm 2011) và có xu hướng giảm (2,9 triệu
đồng/người/tháng năm 2012).
Về lao động
Quá
trình đổi mới NLT quốc doanh đã làm hàng vạn lao động phải nghỉ chế độ
trước tuổi do không sắp xếp được công việc. Hầu hết số lao động dôi dư
này đã được giải quyết chế độ theo các quy định của nhà nước, tuy nhiên
vẫn còn một số đơn vị chưa giải quyết dứt điểm chính sách đối với người
lao động. Đến nay tổng số lao động của các doanh nghiệp NLN hình thành
sau sắp xếp đổi mới NLT là trên 267 ngàn người, trong đó các công ty
nông nghiệp chiếm 80%.
Đánh
giá về chất lượng lao động hiện nay của các doanh nghiệp, có khoảng
trên 12 ngàn người không đáp ứng được yêu cầu, trong đó đội ngũ cán bộ
quản lý chiếm tỷ trọng lớn. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, nhất là nhân
lực quản lý, đã dẫn đến chậm đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp,
điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
3. Một vài kiến nghị - đề xuất
Về mô hình tổ chức:
Căn cứ thực trạng các doanh nghiệp hình thành sau sắp xếp đổi mới NLT hiện nay, cần tiếp tục sắp xếp lại theo 3 loại hình sau:
1.
Doanh nghiệp ở vùng sâu, vùng xa có nhiệm vụ công ích, quốc phòng, an
ninh: Đối với loại này nhà nước đầu tư 100% vồn, đồng thời củng cố lại
bộ máy quản lý nhằm giúp các đơn vị này làm tốt nhiệm vụ hạt nhân cho
phát triển kinh tế-xã hội. Nhà nước cần có hỗ trợ kịp thời và thỏa đáng
cho các đơn vị này trong trường hợp kinh doanh gặp khó khăn;
2. Loại hình doanh nghiệp kinh doanh thuần túy: Đối xử bình đẳng với các thành phần kinh tế khác;
3.
Chuyển các doanh nghiệp lâm nghiệp mà hoạt động chủ yếu là khai thác
rừng tự nhiên thành đơn vị sự nghiệp với nhiệm vụ chính là bảo vệ rừng.
Về cơ chế hoạt động:
- Các doanh nghiệp kinh doanh thuần túy cần đẩy mạnh quá trình đa sở hữu để thu hút đầu tư của xã hội;
-
Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ các đơn vị tiếp tục thực hiện có hiệu
quả các hình thức khoán nhằm tái lập các trang trại gia đình và trang
trại cá nhân trong lòng doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn lực (đất, tài chính, lao động…). Sớm sửa đổi bổ sung Nghị định
135/2005/NĐ-CP;
-
Đối với doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích: Từng bước xã hội hóa các
nhiệm vụ công ích như khoán, cho thuê, đấu thầu bảo vệ rừng…
- Cấp kinh phí quản lý và bảo vệ rừng thỏa đáng cho các doanh nghiệp lâm nghiệp có diện tích rừng phòng hộ và đặc dụng .
Về chính sách tài chính:
-
Ngân sách nhà nước cấp đủ và kịp thời kinh phí rà soát đất đai của các
doanh nghiệp, có thể sử dụng từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp đổi mới doanh nghiệp;
-
Xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu, nợ khó đòi của các doanh nghiệp. Nhà
nước cần có cơ chế cụ thể cho từng trường hợp mất khả năng thanh toán,
mất vốn buộc phải giải thể hay phá sản;
-
Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tiếp cận và ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất kinh doanh, nhất là các đơn vị ở vùng sâu vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc ít người.
Về chính sách lao động, việc làm:
- Giải quyết dứt điểm và thỏa đáng chế độ cho người lao động chưa đến tuổi nghỉ hưu sau sắp xếp đổi mới bị mất việc làm;
- Hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp tổ chức đào tạo lại lao động, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý;
-
Sớm sửa đổi, bổ sung chính sách để các doanh nghiệp thu hút và giải
quyết việc làm cho lao động là người dân tộc thiểu số tại chỗ.
Thạc sỹ: Vũ Duy Hưng
Nhìn lại các nông lâm trường quốc doanh
TTCT - Đã qua hơn 10 năm thực hiện hai nghị quyết
quan trọng (*) về việc sắp xếp, đổi mới nông lâm trường quốc doanh,
nhưng đến nay các công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp (chuyển đổi từ
các nông lâm trường quốc doanh) vẫn đang loay hoay tìm hướng đi.
Những người dân làm tô trên một khu đất của Công ty Lam Sơn (Thanh Hóa) đang thu hoạch mía |
Qua hai năm nghiên cứu, mới đây Viện Tư vấn phát triển
(CODE) đã đưa ra một cảnh báo: “Việc tranh chấp đất đai giữa các công ty
lâm nghiệp và người dân đang diễn ra rất nghiêm trọng. Nếu vấn đề không
được giải quyết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến những mục tiêu đã đề ra”.
Phóng viên TTCT đã đi thực địa và ghi nhận tại các công
ty lâm nghiệp trên địa bàn Tây nguyên và một số tỉnh phía Bắc để thấy
rõ hơn những vấn đề này.
Xung đột đất đai
Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện có 15 công ty TNHH một
thành viên lâm nghiệp và được giao quản lý 197.721ha. Theo UBND tỉnh Đắk
Lắk thì tới tháng 1-2013, chỉ tính riêng trên diện tích rừng do các
công ty này quản lý, có gần 9.680ha rừng bị người dân chặt phá, lấn
chiếm và hơn 800ha đất đang bị tranh chấp.
Theo Sở NN&PTNT Thanh Hóa, trên địa bàn tỉnh có 5
công ty TNHH một thành viên chuyển đổi từ nông trường quốc doanh trước
đây, được giao quản lý hơn 7.356ha đất nông nghiệp. Sau khi chuyển đổi, 5
công ty này chỉ giữ lại 2.445 người (trong biên chế), còn hơn 6.300
nông trường viên trước đây không thuộc biên chế phải nhận khoán đất do
công ty quản lý theo nghị định 135/NĐ-CP (ngày 8-11-2005).
|
Đi dọc theo các tuyến đường từ thôn 14 rồi sang đường 67… thuộc xã Ea Lê, huyện Ea Súp (tỉnh Đắk Lắk), chúng tôi nhận thấy những cánh rừng trước đây thuộc lâm phần của Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Chư Ma Lanh (trụ sở tại xã Cư M'Lan, huyện Ea Súp) đã bị dọn quang. Thay vào đó là những cánh đồng cao su, bắp, cà phê, mì… chạy tít tắp cùng những ngôi nhà của người dân mới được dựng lên.
Đây chính là những khu đất mà theo giám đốc Công ty Chư
Ma Lanh - ông Nguyễn Hữu Thu - đang bị người dân lấn chiếm, và tình
trạng lấn chiếm đất đang diễn ra “cực kỳ nghiêm trọng”. Sau khi chuyển
đổi từ lâm trường sang mô hình công ty, Công ty Chư Ma Lanh được giao
quản lý hơn 14.700ha diện tích rừng, đất rừng. Nhưng theo giám đốc
Nguyễn Hữu Thu, có đến hơn 700 hộ dân và một số đơn vị đang lấn chiếm
khoảng 6.000ha rừng, đất rừng của công ty để trồng cao su, bắp, cà phê,
sắn...
Tranh chấp đất đai giữa Công ty Chư Ma Lanh và người
dân gay gắt đến nỗi một số dự án liên doanh liên kết của tỉnh đề ra
không thể thực hiện được.
Tháng 7-2012, UBND tỉnh Đắk Lắk đã có quyết định thu
hồi hơn 900ha đất tại tiểu khu 294 và 295 do Công ty Chư Ma Lanh quản lý
để giao cho Công ty cổ phần Vinamit thuê với dạng đất rừng sản xuất
nhằm trồng các loại cây công nghiệp, nông nghiệp tạo vùng canh tác, sản
xuất nguyên liệu tập trung. Thế nhưng, Vinamit đã không thể triển khai
được dự án vì tất cả phần diện tích đất trên đã bị người dân lấn chiếm
để canh tác hoa màu và cuối cùng đành phải rút dự án, trả lại phần diện
tích đất mà tỉnh Đắk Lắk đã giao cho mình.
Tương tự, Công ty Lâm nghiệp Buôn Ja Wầm được Nhà nước
giao quản lý, bảo vệ và tổ chức sản xuất kinh doanh trên 8.890ha rừng và
đất rừng nằm trên địa bàn hai xã Ea Kuêh và Ea Kiết, huyện Cư M'Gar
(Đắk Lắk). Theo giám đốc Công ty Lâm nghiệp Buôn Ja Wầm Trần Thanh Lâm,
đã có khoảng 460ha rừng “bị người dân lấn chiếm” để trồng cà phê, điều,
hồ tiêu, bắp... Ngay tại tiểu khu 547A đang có 19 ngôi nhà người dân địa
phương cất lên và lấn chiếm hơn 34ha để trồng hoa màu.
Tại khu vực này, “công ty đã phối hợp với chính quyền
địa phương nhiều lần vào giải tỏa toàn bộ hoa màu và nhà cửa, sau đó
tiến hành trồng lại rừng, nhưng chỉ chờ các cán bộ rút đi, người dân lại
vào nhổ bỏ cây rừng mới trồng rồi lấn chiếm đất để tiếp tục canh tác”.
Tại tỉnh Đắk Nông, tình trạng tranh chấp đất giữa người
dân với 14 công ty lâm nghiệp, theo ông Vũ Minh Khôi - phó giám đốc Sở
NN&PTNT tỉnh, cũng đang “rất đáng ngại”. Theo báo cáo của Tỉnh ủy
Đắk Nông mới đây, tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng trên địa bàn
tỉnh đã xảy ra trên diện tích lên tới gần 127.000ha, trong đó diện tích
rừng bị lấn chiếm để trồng các loại cây công nghiệp và hoa màu lên đến
79.000ha.
Đa số những vụ phá, lấn chiếm đất rừng với diện tích
lớn đều xảy ra tại các công ty nông, lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh. Chỉ
riêng tại Công ty Lâm nghiệp Quảng Tín (xã Đắk Ngo, huyện Tuy Đức) đã để
mất hơn 1.300ha rừng mà phần lớn là do các doanh nghiệp tư nhân và
người dân chặt phá, lấn chiếm trồng cao su, tiêu, điều, cà phê…
Những người dân bị cáo buộc là đang “xâm canh” như ông
Dẩu Văn Hồng (53 tuổi, dân tộc Dao, trú xã Ea Quế, huyện Cư M’Gar) với
hơn 5 sào đất tại tiểu khu 547A, lâm phần quản lý của Lâm trường Buôn Ja
Wầm, hay anh Dẩu Văn Quang (dân tộc Dao, trú xã Ea M’Ta, huyện Cư
M’Gar) với khoảng 2ha đều nói rằng họ đã “mua lại đất bằng giấy tờ viết
tay từ người khác”, và vì “nhà đông con, không có đất thì phải phá rừng
để trồng bắp, nên nhất định sẽ không trả đất”.
Đồ họa: Hồng Quân - (Nguồn: Báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp, tháng 5-2012) |
“Phát canh thu tô nặng”
Tình hình diễn ra có phần khác với phía Nam, nhiều công
ty một thành viên phía Bắc lại đang xung đột với người dân trong việc
giao khoán đất, trong một mối bất hòa mà người dân gọi là từ tình trạng
“phát canh thu tô” nặng mà ra. Tại Thanh Hóa, Công ty TNHH một thành
viên Yên Mỹ (xã Yên Mỹ, huyện Như Thanh) được UBND tỉnh giao quản lý
840ha đất. Sau khi chuyển đổi, công ty giao khoán cho các nhân viên của
công ty và hộ nông dân bên ngoài trồng mía, cao su, lúa.
Hiện nay có 962 hộ nhận khoán gần như toàn bộ 840ha đất
này. Trong đó, 265 hộ là công nhân viên chức, lao động của công ty nhận
281ha (bình quân 1,06ha/hộ, chiếm 34%), diện tích đất còn lại là do
nông dân các xã lân cận nhận khoán (528ha, bình quân 0,76ha/hộ, chiếm
gần 60%). Mỗi năm, công ty thu của người nhận khoán từ 3-7% tính trên
tổng sản lượng cây trồng (chủ yếu là mía nguyên liệu, cây cao su) và
người dân phải trả bằng tiền (quy theo giá thị trường).
Được biết, tổng doanh thu của Công ty Yên Mỹ trung bình
đạt hơn 20 tỉ đồng/năm, trong đó phần thu từ nhân viên công ty chỉ
chiếm 33%, 67% doanh thu còn lại là từ người dân bên ngoài nhận khoán
đất của công ty.
Tương tự, Công ty TNHH một thành viên Lam Sơn (xã Lam
Sơn, huyện miền núi Ngọc Lặc, Thanh Hóa) hiện quản lý 1.200ha đất nông
nghiệp và cũng đang cho hàng trăm hộ dân thuê khoán trên diện tích
khoảng 800ha để trồng cao su hoặc mía. Đã nhiều năm nay, ông Lê Nguyên
Sơn (ở thôn 7, xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc) nhận trồng 7.912m2 mía trên phần đất thuộc Công ty Lam Sơn quản lý.
Hằng năm, công ty “thu tô” của ông Sơn là 830kg mía nguyên liệu/1.000m2
(tức là 8,3 tấn/ha/năm). “Ngoài ra, đội sản xuất của công ty còn thu
thêm tiền dịch vụ, tiền bảo vệ, tiền phí tu sửa đường giao thông... nên
thực chất tính ra chúng tôi phải nộp cho công ty tới 10 tấn mía/ha/năm” -
ông Sơn nói.
Chịu không xiết việc phải thuê đất và phải “trả tô” quá
cao như thế, nhiều năm nay ông Sơn đã vác đơn đi khiếu nại từ huyện đến
tỉnh để đòi quyền lợi của mình trên chính mảnh đất mà Công ty Lam Sơn
đang quản lý. Ông Sơn lý giải do từ trước năm 1989, gia đình ông là nông
trường viên và được giao canh tác trên thửa đất số 209, với diện tích
7.912m2, do Nông trường Lam Sơn (sau chuyển thành Công ty Lam
Sơn) quản lý. Hằng năm, gia đình ông Sơn vẫn đóng góp nghĩa vụ đầy đủ
cho Nhà nước.
Đến năm 2004, khi chuyển đổi Nông trường Lam Sơn thành
Công ty Lam Sơn, gia đình ông Sơn không còn là nông trường viên nữa. Do
đó nhiều năm qua, ông Sơn và một số hộ trong thôn có đơn đề nghị công ty
bàn giao đất canh tác của các hộ về cho xã, để xã giao quyền sử dụng,
quản lý cho các hộ sản xuất nhưng Công ty Lam Sơn không đồng ý.
Theo nhiều hộ nông dân ở xã Lam Sơn đang phải thuê đất
của Công ty Lam Sơn để trồng mía, thì năng suất mía bình quân chỉ đạt
khoảng 60 tấn/ha/năm. Sau khi trừ nộp sản cho công ty và chi phí sản
xuất, họ chỉ còn lãi khoảng 30 triệu đồng/ha. Trong khi đó, cũng là nông
dân trồng mía nguyên liệu ở các xã Minh Tiến, Minh Sơn, Kiên Thọ (cùng
huyện Ngọc Lặc), do không phải thuê đất, sau khi trừ mọi chi phí, bà con
lãi khoảng 45 triệu đồng/ha.
Người dân thuê đất của Công ty Lam Sơn để trồng cao su
còn bị áp dụng mức thu “quản lý phí” đất rất cao. Gia đình bà Ngô Thị
Nam (trú thôn 5, xã Lam Sơn) thuê 4ha đất của công ty để trồng cao su.
Ngoài phần “nộp tô” từ 5-12% sản lượng mủ khô/năm, gia đình bà cũng như
các hộ thuê đất khác để trồng cao su đều phải nộp thêm tiền “quản lý
phí” cho Công ty Lam Sơn từ 5-7 triệu đồng/ha/năm.
Xã Lam Sơn được thành lập ngày 9-1-2004 và có diện tích
đất tự nhiên gần 1.290ha. Thế nhưng phần đất do Công ty Lam Sơn quản lý
đã lên đến 1.200ha. Hiện xã Lam Sơn có 1.209 hộ (4.657 nhân khẩu), chủ
yếu làm nông nghiệp. Toàn xã hiện chỉ có khoảng 20ha trồng lúa nước, hơn
40ha đất trồng màu và gần 30ha đất trồng cây lâu năm. Do thiếu đất sản
xuất nông nghiệp trầm trọng, hàng trăm hộ dân vẫn phải thuê đất của Công
ty Lam Sơn để canh tác, mưu sinh, nên cuộc sống hết sức khó khăn.
(*): Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị và nghị định số 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ.
Thanh tra Bộ Tài nguyên - môi trường mới đây đã công bố
kết quả thanh tra 73 nông lâm trường đã được chuyển sang mô hình công
ty một thành viên tại một số tỉnh thành. Theo đó, đã phát hiện hàng loạt
sai phạm liên quan tới việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái pháp
luật. Cụ thể, có đến 23/73 đơn vị đã tự ý chuyển đổi 1.068,55ha đất nông
nghiệp sang đất phi nông nghiệp.
Ngoài ra, nhiều đơn vị cũng bị phát hiện đem thế chấp
quyền sử dụng đất tại các ngân hàng hoặc tự ý góp vốn bằng giá trị quyền
sử dụng đất trái pháp luật. Cụ thể: 6/73 đơn vị đem thế chấp giá trị
quyền sử dụng đất tại các ngân hàng, với diện tích 51.768,24ha. Ngoài
ra, Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Bắc Kạn bị phát hiện đem
710ha đất góp vốn để sản xuất; Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Ba
Tơ (Quảng Ngãi) tự ý góp 1.600ha đất...
Về việc liên doanh liên kết, thanh tra cũng đã phát
hiện 15/73 đơn vị liên doanh liên kết với hơn 2.000 hộ dân cùng 6 doanh
nghiệp tư nhân trong sản xuất nông nghiệp với diện tích đất lên đến trên
12.300ha. Thanh tra kiến nghị các cấp có thẩm quyền yêu cầu các đơn vị
chấm dứt việc liên doanh liên kết này.
Đoàn thanh tra cũng phát hiện 20/73 công ty một thành
viên đã cho thuê lại quyền sử dụng đất trái pháp luật với tổng diện tích
16.847,97ha. Thanh tra đã phát hiện 41/73 công ty một thành viên đang
có tranh chấp, lấn chiếm với các hộ dân, các tổ chức, với tổng diện tích
bị lấn chiếm lên tới 8.445,7ha.
|
“Nhiều doanh nghiệp thực chất mới thực hiện đổi tên,
chưa có sự thay đổi căn bản về cơ chế quản lý và quản trị doanh nghiệp,
nhất là không tạo được điều kiện để công ty phát huy tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh…”, “Việc chuyển đổi hàng loạt
công ty lâm nghiệp quản lý rừng sản xuất chủ yếu là rừng tự nhiên thành
công ty lâm nghiệp sản xuất kinh doanh đã hoạt động không hiệu quả”...
Đây là những nội dung được nhắc đi nhắc lại trong báo
cáo của các tỉnh thành, bộ ngành về việc thực hiện nghị quyết 28-NQ/TW
về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông lâm trường quốc doanh.
Những vạt rừng biến mất, thay vào đó là những vườn cao su mới được người dân chiếm đất của Công ty Chư Ma Lanh (Đắk Lắk) trồng nên |
Kinh doanh kém, bảo vệ rừng yếu
Xét trên cả nước, mặc dù phần nhiều công ty một thành
viên hiện nay sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhưng hiệu quả kinh doanh
đạt được rất thấp, không tương xứng với diện tích đất - nguồn tư liệu
sản xuất rất lớn mà Nhà nước đang giao cho họ.
Chính quyền tỉnh Đắk Lắk đã nhìn nhận tình hình sản
xuất kinh doanh của các công ty lâm nghiệp trên địa bàn là “hết sức khó
khăn, bộc lộ nhiều nhược điểm trong quản lý rừng” do hầu hết vẫn điều
hành, hoạt động như cũ, nguồn thu chính vẫn là tiền bán gỗ khai thác từ
rừng tự nhiên theo kế hoạch hằng năm và từ ngân sách nhà nước. Khi không
còn chỉ tiêu khai thác gỗ, sự thua lỗ của nhiều công ty là không thể
tránh khỏi. Đắk Lắk đang có hướng chuyển một số công ty như thế trở lại
là ban quản lý rừng nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng tốt hơn (!?).
Ông Nguyễn Hữu Thu, giám đốc Công ty Chư Ma Lanh, cho
biết tình trạng không có tiền dẫn đến chậm trả lương cho cán bộ công
nhân viên trong công ty đã diễn ra từ năm 2009 đến nay để rồi “cứ phải
chạy đầu này đầu kia để đắp vào lương”.
Theo ông Thu, công ty ông rơi vào khó khăn như thế từ
ngày tỉnh Đắk Lắk có chủ trương đóng cửa rừng, công ty không còn được
khai thác gỗ để bán nữa và không có bất cứ nguồn thu nào. Khi được hỏi
vì sao công ty không tổ chức chăn nuôi trâu bò dưới tán rừng như các
trang trại khác quanh vùng đang làm, ông Thu than: “Tiền còn không có để
trả lương cho công nhân thì làm gì có vốn mua bò!”.
Nhiều giám đốc doanh nghiệp một thành viên lâm nghiệp
khi trao đổi với chúng tôi đều thừa nhận tình hình hoạt động đang rất
khó khăn. Theo họ, dù được gọi là “doanh nghiệp” nhưng thực chất việc
hoạt động sản xuất kinh doanh chưa thực hiện được như một doanh nghiệp
thực thụ.
“Doanh nghiệp gì mà không có tư liệu sản xuất, nguồn
vốn cũng không có?” - chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Đắk Lắk
Nguyễn Quốc Hưng nhận xét và cho biết: cả hai nhiệm vụ là sản xuất kinh
doanh và bảo vệ phát triển rừng mà các công ty một thành viên lâm nghiệp
hiện nay phải thực hiện đều chưa hoàn thành. “Mô hình công ty một thành
viên lâm nghiệp hiện nay được chuyển từ các lâm trường quốc doanh trước
đây chỉ là bình mới rượu cũ”.
Ông Vũ Minh Khôi, phó giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Đắk
Nông, cũng cho biết 14 công ty lâm nghiệp của tỉnh đang hoạt động đều
kém hiệu quả, vài đơn vị “tạm ổn” là nhờ còn được phép khai thác rừng để
bán gỗ, còn lại đều đang loay hoay tìm mà chưa thấy lối ra nào sáng
sủa. “Từ đó nhiệm vụ chính là giữ, khoanh nuôi bảo vệ rừng của những đơn
vị này cũng không hoàn thành được vì họ còn đang căng mình ra, phân tán
lực lượng cho việc kinh doanh” - ông Khôi đúc kết.
Và cũng chính vì nóng vội trong việc sản xuất kinh
doanh, mới đây đã có sáu người gồm nguyên giám đốc và các cán bộ khác
của Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Quảng Tín (xã Đắk Ngo, huyện
Tuy Đức, Đắk Nông) bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Nông
khởi tố hành vi thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý và bảo vệ rừng,
thực hiện hợp đồng liên doanh liên kết gây mất rừng.
Từ năm 2007, Công ty Quảng Tín đã ký hợp đồng liên
doanh liên kết với 9 doanh nghiệp tư nhân để giao cho những đơn vị này
trồng cao su trên phần diện tích hơn 1.000ha và bảo vệ rừng trên
1.800ha. Chính việc không kiểm tra, giám sát, giao trách nhiệm quản lý
bảo vệ rừng sai đối tượng mà lãnh đạo của Công ty Quảng Tín đã để mất
đến hơn 1.000ha rừng và có hơn 1.200ha đất rừng đang bị một số doanh
nghiệp tư nhân bao chiếm.
Những người dân này cho biết do thiếu đất sản xuất nên mới vào lấn chiếm phần đất của Công ty Buôn Ja Wầm đang quản lý để canh tác nông nghiệp |
Mờ mịt hướng đi
Đã có nhiều năm làm giám đốc lâm trường, nay là phó
giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Nông, ông Vũ Minh Khôi hiểu rõ những
khó khăn, vướng mắc của các nông lâm trường khi chuyển đổi sang công ty
một thành viên.
Theo ông Khôi, cách duy nhất để các công ty này hoạt
động ổn thỏa là một cơ chế cho họ hoạt động như một doanh nghiệp bình
thường. Nhưng cụ thể là một cơ chế như thế nào thì khi được hỏi, nhiều
vị là giám đốc, phó giám đốc những công ty này cũng chỉ có một câu trả
lời rất chung chung là một cơ chế… thông thoáng (!?).
Và ngay trong một văn bản gửi cho Chính phủ cùng các bộ
ngành liên quan, Phó chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Đinh Văn Khiết cũng nêu
ra những kiến nghị rất “bao quát”: cần cơ chế, chính sách đặc thù đối
với công ty một thành viên lâm nghiệp về khai thác gỗ rừng tự nhiên; cần
được miễn tiền sử dụng, tiền thuê đất, việc trồng rừng phải được vay
vốn ưu đãi; cần được dùng giá trị quyền sử dụng đất được giao để góp vốn
liên kết sản xuất trong các dự án lâm nghiệp cũng như vay vốn đầu tư
kinh doanh.
Việc giải quyết những bức xúc của người dân phải đi
thuê đất, nộp “tô” với các công ty một thành viên, theo ông Nguyễn Quốc
Minh - phó bí thư Đảng ủy, chủ tịch HĐND xã Lam Sơn - là “vẫn chưa thấy
hướng ra”. Ông cho biết đã nêu nỗi bức xúc này đến các vị đại biểu HĐND
tỉnh, đại biểu Quốc hội trong những lần tiếp xúc cử tri gần đây. Tuy
nhiên, đến nay các cơ quan chức năng cấp tỉnh vẫn chưa giải quyết thỏa
đáng những kiến nghị của cử tri. Trong đó nổi cộm nhất là việc bà con
nông dân địa phương thiếu đất sản xuất, phải đi thuê đất của Công ty Lam
Sơn.
Ông Phạm Thanh Sơn - phó giám đốc Sở Tư pháp Thanh Hóa
(nguyên bí thư Huyện ủy Ngọc Lặc) - cho rằng Nhà nước cần phải xem xét
và đánh giá dứt điểm về hiệu quả của việc chuyển đổi các nông trường
sang mô hình công ty TNHH một thành viên. Và ngay cả khi hoạt động có
hiệu quả, các công ty này cũng phải thực hiện nghĩa vụ thuê đất của Nhà
nước như các doanh nghiệp khác.
“Công ty nào hoạt động không hiệu quả cần bị giải thể,
trả lại đất cho địa phương quản lý, giao cho nông dân canh tác theo Luật
đất đai” - ông đề xuất.
“Những dạng tranh chấp này đang diễn ra ngày càng gay
gắt, nếu không giải quyết kịp thời sẽ kéo theo nhiều hậu quả khác” - ông
Phạm Quang Tú, phó viện trưởng Viện Tư vấn phát triển (CODE, viện
nghiên cứu độc lập), người đã cùng các cộng sự nghiên cứu sâu về quan hệ
đất đai giữa các công ty một thành viên nông lâm nghiệp và người dân
tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung, Tây nguyên và Đông Nam bộ trong hai
năm qua, nhận định.
Ông Phạm Quang Tú |
* Theo ông, tình hình tranh chấp đất đai này sẽ còn diễn biến ra sao?
- Có ba nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc tranh chấp đất đai.
Thứ nhất là sự bất bình đẳng trong thực trạng quản lý,
sử dụng đất đai giữa công ty và người dân. Các công ty mặc dù yếu cả về
nguồn lực lẫn tài chính nhưng vẫn được giao quản lý một diện tích đất và
rừng quá lớn, trong khi người dân sẵn sàng sản xuất lại thiếu đất trầm
trọng.
Thứ hai là hậu quả để lại của các chương trình dự án
trước đây, đặc biệt là chương trình giao đất giao rừng và các dự án
trồng rừng. Do phần lớn đất đai giao cho các nông lâm trường trước đây
chỉ thực hiện bằng việc ra các quyết định mà không có giao đất trên thực
địa, còn các chương trình giao đất giao rừng thì chỉ thực hiện trên bản
đồ và “chỉ tay năm ngón” nên trên thực tế diện tích bị chồng lấn rất
nhiều.
Gần đây, khi thực hiện giao lại đất cho cộng đồng tại
xã Lùng Sui, huyện Si Ma Cai (Lào Cai), Viện Nghiên cứu sinh thái chính
sách xã hội (SPERI) và Chi cục Lâm nghiệp Lào Cai đã xác định có tới gần
50% đất được giao bị chồng lấn và sai giữa bản đồ với thực địa. Nhiều
diện tích đất đai thuộc đất cộng đồng, đất canh tác trong thời kỳ hoang
hóa của gia đình và thậm chí là đất trụ sở của UBND xã cũng bị “khoanh”
vào đất lâm trường.
Thứ ba là do tác động của kinh tế thị trường, đặc biệt
là ở các tỉnh Tây nguyên do giá của một số cây nông sản, công nghiệp
(như sắn, mía, cao su, cà phê, tiêu...) tăng cao nên người dân “xâm
canh” vào đất đai của các công ty.
Báo cáo ngày 17-5-2012 của Bộ NN&PTNT đưa ra con số
diện tích đất đai lấn chiếm ở toàn bộ các công ty lâm nghiệp trên cả
nước chỉ là 7.684ha (giảm gần 68.000ha so với báo cáo tổng kết NQ 28 mà
Bộ NN&PTNT báo cáo ngày 6-1-2012 - PV).
Tuy nhiên, theo chúng tôi thì tất cả các con số này chỉ
là “phần nổi của tảng băng”, bởi chỉ tại Công ty Đông Bắc ở Lạng Sơn
hay Công ty Gia Nghĩa ở Đắk Nông thôi thì diện tích đất đai trong diện
tranh chấp đã lớn hơn con số 7.684ha trên rồi. Trong thời gian tới, nếu
không có các giải pháp tốt thì diện tích tranh chấp ngày càng gia tăng
và có nguy cơ lan từ tranh chấp kinh tế (đất đai) sang bức xúc xã hội.
* Ông và các cộng sự của mình đề xuất giải pháp gì để giải quyết tình hình tranh chấp đất đai này?
- Theo chúng tôi, cần triển khai song song các hoạt
động gồm tổ chức đánh giá, rà soát lại thực trạng và hoạt động của các
công ty nông lâm nghiệp hiện nay, đánh giá lại thực trạng đất đai sản
xuất và cuộc sống người dân ở vùng có các công ty này đang giữ. Trên cơ
sở kết quả của hai đánh giá này, cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng
phương án cải tổ các công ty nông lâm nghiệp gắn với việc giải quyết đất
đai cho đồng bào dân tộc thiểu số và xây dựng nông thôn mới ở các địa
phương.
* Nhiều công ty làm ăn thua lỗ, trong khi công tác
bảo vệ, khoanh nuôi rừng cũng không đạt. Vậy theo ông, hướng đi nào cho
các đơn vị này là phù hợp?
- Phương án sắp xếp, đổi mới công ty này nên được tiến
hành theo hướng: đối với các công ty lâm nghiệp quản lý nhiều rừng tự
nhiên (đặc biệt là các công ty ở Tây nguyên và miền Trung) thì chuyển
đổi sang ban quản lý bảo vệ rừng. Theo đó, một phần Nhà nước sẽ đầu tư
kinh phí để các ban quản lý này thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng.
Nhà nước cũng phải đảm bảo điều kiện để các ban quản lý
rừng đó có thể thực hiện các chính sách về chi trả dịch vụ môi trường
rừng (PES), chính sách giảm thải cacbon (REDD+). Đồng thời, cần thực
hiện việc đồng quản lý rừng giữa các ban quản lý này và người dân địa
phương theo phương án quản lý rừng bền vững. Như thế, các ban quản lý
vừa có đủ nguồn thu để duy trì hoạt động mà người dân cũng có thể được
hưởng lợi từ rừng để giảm áp lực vào phá rừng.
Đối với công ty lâm nghiệp quản lý rừng trồng và đất
trống, sau khi đánh giá thực trạng tranh chấp đất đai, nhu cầu sử dụng
đất của người dân thì tiến hành thu hồi đất đai giao lại địa phương để
giao cho người dân. Chỉ nên giao cho các công ty một diện tích đất tối
thiểu để sản xuất kinh doanh và có thể tạo ra vùng nguyên liệu nhằm sản
xuất hàng hóa.
Khi công ty muốn mở rộng sản xuất thì buộc phải liên
kết với người dân để sản xuất, người dân có thể góp đất để trở thành các
cổ đông. Những công ty hoạt động thua lỗ, yếu kém và không quản lý được
đất đai thì giải thể và giao trả đất về cho địa phương.
* Xin cảm ơn ông.
No comments:
Post a Comment