Những cảnh báo mới đây về sự thiếu hụt nguồn nhân lực lao động từ các tổ chức quốc tế lớn tại VN một lần nữa cho thấy việc cải tổ chất lượng giáo dục - đào tạo không thể chậm trễ hơn.
Theo thống kê, 70% sinh viên tốt nghiệp ngành công nghệ thông tin cần phải qua đào tạo lại mới có thể đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp - Ảnh: Đào Ngọc Thạch |
Hơn 50% phải đào tạo lại
Nhiều năm qua, các công ty nước ngoài đã cảnh báo với chất lượng đào tạo hiện nay, việc tìm kiếm đủ nguồn nhân lực trong các lĩnh vực đầu tư trọng yếu như: công nghệ thông tin (CNTT), tài chính, quản trị là cực kỳ khó khăn.
Trong một báo cáo của ĐH Harvard (Mỹ) vào năm 2008, các tác giả lấy trường hợp của Intel như một ví dụ điển hình.
Báo cáo viết: “Khi tập đoàn này kiểm tra đầu vào với 2.000 sinh viên
ngành CNTT cho nhà máy lắp ráp và kiểm định chip tại khu công nghệ cao
TP.HCM, kết quả cuối cùng là chỉ có 40 ứng viên đủ trình độ tiếng Anh để
được tuyển. Intel xác nhận đây là kết quả tệ nhất tập đoàn này gặp phải
trong tất cả các nước mà họ đầu tư vào”. Đến nay cho dù người phát ngôn
của Intel, ông Nick Jacobs, khẳng định với Thanh Niên chất lượng nguồn
nhân lực đầu vào đã có những “tiến triển khả quan” trong suốt 5 năm qua
thông qua các chương trình liên kết đào tạo giữa Intel và VN, các chuyên
gia vẫn cho rằng khó có thể nói đã giải quyết triệt để cuộc khủng hoảng
nguồn nhân lực toàn diện đối với các lĩnh vực đầu tư quan trọng.
Cuộc cải tổ phải diễn ra ở mọi cấp độ và nếu nó thất bại hay nửa vời, nền kinh tế Việt Nam sẽ vẫn mãi là nền kinh tế nhân công rẻ, lao động thủ công với nền sản xuất thấp | ||
Giáo sư DENNIS McCORNAC (ĐH Loyola Maryland, Mỹ) | ||
Theo Sách Trắng 2014 của Phòng Thương mại châu Âu tại VN
(EuroCham) - tổng hợp quan điểm của các doanh nghiệp thành viên EuroCham
về các vấn đề cụ thể trong môi trường kinh doanh tại VN trong năm 2013 -
các doanh nghiệp ngành CNTT ở VN hiện phải đầu tư rất lớn cho đào tạo
kỹ năng nghề, tiếng Anh và kỹ năng mềm khi tuyển dụng sinh viên mới tốt
nghiệp. Tài liệu này dẫn số liệu của Bộ Thông tin - Truyền thông cho
thấy trung bình hằng năm nhu cầu nhân lực trong ngành CNTT tăng 13%;
trong 5 năm tới, các doanh nghiệp sẽ cần thêm 411.000 lao động trong
lĩnh vực này. Thế nhưng, theo Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông
tin thị trường lao động TP.HCM, khó có thể đáp ứng nhu cầu trên vì mỗi
năm chỉ có thể đào tạo 60.000 lao động trong ngành.
Đó là về số lượng. Tình hình càng bi đát hơn khi theo một nghiên cứu
gần đây của Viện Thông tin - Truyền thông quốc gia, 70% sinh viên tốt
nghiệp ngành này cần phải qua đào tạo lại mới có thể đáp ứng được yêu
cầu của các doanh nghiệp.
Tình hình cũng không sáng sủa gì hơn đối với một lĩnh vực quan trọng
khác là du lịch và nhà hàng - khách sạn. Sách Trắng chỉ rõ: “Ngành du
lịch hiện vẫn thiếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản. Phần lớn hoạt
động đào tạo hiện nay đều do các trung tâm đào tạo triển khai”.
Bà Nicola Connolly, Phó chủ tịch EuroCham phụ trách lĩnh vực nguồn
nhân lực và đào tạo, trích dẫn các nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ các
công ty nước ngoài khẳng định phải đào tạo lại đội ngũ nguồn nhân lực
nội địa luôn ở mức từ 40% đến 50%. Các doanh nghiệp này cho biết chính
việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao là lý do lớn nhất họ không
thể đầu tư tối đa ở VN hay tệ hơn nữa là chọn một thị trường khác trong
khu vực.
Bà Connolly nói với Thanh Niên: “VN có đội ngũ lao động trẻ
và dồi dào nhưng tất cả các công ty nước ngoài lẫn trong nước đều phải
mất trung bình 6 tháng (riêng công ty của tôi là một năm) để đào tạo lại
từ đầu, về mọi phương diện bao gồm cả những kỹ năng mềm như hành vi ứng
xử tại nơi làm việc, cho đội ngũ nhân viên mới”.
Thay đổi trước hết từ các trường sư phạm
Trong bối cảnh VN đang đứng trước một cuộc cải tổ giáo dục toàn diện,
cả Ngân hàng Thế giới và EuroCham đều đưa ra những kiến nghị thiết thực
và phù hợp với quan điểm của các nhà giáo dục trong nước, xoáy sâu vào
các vấn đề muôn thuở: đổi mới phương pháp giảng dạy và hệ thống thi cử,
cải cách tiền lương giáo viên, tăng quyền tự chủ cho các trường ĐH… Tuy
nhiên, điều quan trọng các tổ chức này muốn nhấn mạnh, chẳng hạn theo
EuroCham: “Cần có chương trình nghị sự về giá trị của việc đầu tư vào
giáo dục và ngân sách cần thiết cho những cải cách phù hợp”. Các chuyên
gia giáo dục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đặt ra những mục tiêu phù
hợp, thiết thực trong công cuộc canh tân giáo dục và bám theo những mục
tiêu đó cho đến cùng.
Các chuyên gia giáo dục đều nhất trí lĩnh vực nhiều thử thách nhất
cuộc cải cách cần nhắm tới là giáo dục ĐH. Giáo sư Dennis McCornac (ĐH
Loyola Maryland, Mỹ) nói với Thanh Niên: “Các trường ĐH đào tạo giáo
viên phải được cải tổ trước tiên. Nhưng cuộc cải tổ phải diễn ra ở mọi
cấp độ và nếu nó thất bại hay nửa vời, nền kinh tế VN sẽ vẫn mãi là nền
kinh tế nhân công rẻ, lao động thủ công với nền sản xuất thấp. Lúc đó,
VN khó có cơ hội cạnh tranh ngay trong khối ASEAN, chứ đừng nói là sánh
vai cùng Nhật Bản hay Hàn Quốc”.
Gặp khó về thời hạn lao động trình độ cao nước ngoài
Ngoài ra, theo các chuyên gia, những yếu kém, khiếm khuyết của lực
lượng lao động trong nước dự báo sẽ càng bộc lộ rõ ràng hơn khi mà Nghị
định 102/2013/NĐ-CP về thuê lao động nước ngoài vừa có hiệu lực từ ngày
1.11.
Một trong những điểm đáng chú ý nhất của nghị định này là giảm thời
hạn tối đa của giấy phép lao động từ 3 năm xuống còn 2 năm. Các chuyên
gia cho rằng, với hệ thống giáo dục hiện nay và sự thiếu hụt nghiêm
trọng nguồn lao động có trình độ cao, điều khoản này sẽ làm giảm thời
gian chuyển giao tri thức, khiến các doanh nghiệp nước ngoài lẫn nội địa
càng lao đao hơn để tuyển dụng đội ngũ nhân viên đáp ứng các tiêu chuẩn
cần thiết.
Luật sư Lê Thành Kính (Đoàn Luật sư TP.HCM) đặt vấn đề: “Thời hạn
giấy phép lao động theo quy định là 2 năm có đủ để người lao động trong
nước, người sử dụng lao động học hỏi, tiếp thu và thay thế cho người lao
động có trình độ chuyên môn cao hay không?”.
Khó tìm được người có khả năng phù hợp Trong báo cáo “Phát triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao động cho một nền kinh tế thị trường hiện đại ở VN” công bố ngày 29.11, Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh hệ thống phát triển kỹ năng kỹ thuật của VN chưa hoàn thiện do thiếu sự kết nối giữa các trường ĐH, dạy nghề với các doanh nghiệp, người lao động và sinh viên. “Nhiều công ty vẫn không tìm được đủ số lượng người lao động có kỹ năng phù hợp... Sự thiếu hụt kỹ năng thể hiện đặc biệt rõ ràng ở các ứng viên tìm việc làm trong các vị trí kỹ thuật, chuyên môn và quản lý”, báo cáo viết. Trước đó, trong Sách Trắng 2014 công bố ngày 11.11, EuroCham cũng chỉ rõ: “Trong khối ASEAN, VN nằm ở nửa cuối của bảng xếp hạng đánh giá về phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, phát triển và nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của VN nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động đang thay đổi nhanh chóng”. |
An Điền
Trần Xuân Hoài |
Những
con số khách quan do Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu (World
Intellectual Property Organization - WIPO thuộc LHQ) công bố tưởng như
vô hồn đã nói lên rằng trí tuệ quốc gia Việt nam đang ngụp lặn ở nửa
dưới của thế giới và với xu hướng ngày càng chìm sâu, thụt lùi xa so
với láng giềng.
Hệ thống Đổi mới/Sáng tạo quốc gia - Nguồn gốc tạo nên trí tuệ của đất nước
Khi người cha già yếu vẫn vắt sức làm cửu vạn, còn bà mẹ bệnh tật chạy bới từng thùng rác kiếm từng đồng lẻ, cắn răng để nuôi con ăn học, chỉ với một ước nguyện duy nhất là mong con có được trí tuệ để đổi đời, không còn phải bán thân, bán sức như đời bố mẹ chúng, thì ông bà già tội nghiệp đó hiểu hơn ai hết sức mạnh và sự cần thiết của trí tuệ đối với một con người. Một quốc gia muốn “đổi đời” cũng cần có trí tuệ. Nhưng trí tuệ của một quốc gia không phải đơn thuần là phép cộng của trí tuệ từng con người, nó là do cả một hệ thống tạo lập nên. Đó chính là Hệ thống đổi mới / sáng tạo của quốc gia (national innovation system -NIS), trong đó trí tuệ của từng con người là một thành tố. NIS được định nghĩa là hệ thống các chủ thể và các mối tương tác với nhau của các chủ thể đó, bao gồm tổ chức nhà nước, các cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp công và tư (lớn hoặc nhỏ), các trường đại học và các cơ quan chính phủ, nhằm mục đích sản sinh các sản phẩm sáng tạo, các sản phẩm khoa học và công nghệ (S&T) trong khuôn khổ lãnh thổ một quốc gia. Các mối tương tác giữa các chủ thể này bao gồm các vấn đề thuộc về chính sách, kỹ thuật, thương mại, pháp lý, xã hội và tài chính của các hoạt động đổi mới /sáng tạo dưới các dạng thức như sự phát triển, bảo hộ, tài trợ hoặc quy phạm…
Từ năm 2007, WIPO đã cùng một số đại công ty, tổ chức phi chính phủ cho ra đời hệ thống Chỉ số Đổi mới/Sáng tạo toàn cầu - Global Innovation Index (GII) và lập ra bảng xếp hạng hằng năm của các quốc gia trên thế giới.
Định nghĩa của sự đổi mới/sáng tạo nay đã mở rộng, nó không còn giới hạn với các phòng thí nghiệm R&D hoặc với việc xuất bản các bài báo khoa học, mà còn bao gồm cả những đổi mới/sáng tạo về tổ chức quản lý xã hội cũng như đổi mới/sáng tạo mô hình kinh doanh. Đổi mới /sáng tạo được thể hiện ở đầu vào và đầu ra của cả một quốc gia. Đó là một chỉ số đánh giá về trí tuệ, về hoạt động và thành quả của hoạt động trí tuệ con người, không phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, về tài sản thừa kế, vay mượn, cướp bóc hay những may mắn bất ngờ nào cả [1].
Đổi mới/sáng tạo là động lực quan trọng cho sự tiến bộ kinh tế và sức cạnh tranh đối với các nước đã phát triển cũng như đang phát triển. Nhiều Chính phủ đang đặt sự đổi mới/sáng tạo thành trung tâm của chiến lược phát triển.
Thứ bậc Việt Nam trên bảng xếp hạng trí tuệ toàn cầu
Năm 2011 chúng ta vui mừng trên bảng chỉ số Đổi mới/sáng tạo toàn cầu
Việt Nam ngoi lên được trên trung bình đứng thứ 51 trong 125 nước. Niềm
vui ngắn chẳng tầy gang, 2012 ta lại tụt sâu xuống nửa dưới của thế
giới, thứ 76 trên 141 nước! Nhìn lại quá trình từ 2007 khi bắt đầu có sự
đánh giá thì tình hình còn bi đát hơn, chẳng những kém cỏi mà xu hướng
là suy giảm liên tục. Sự ngoi lên năm 2011 có thể là ngẫu nhiên, không
phải là thực chất như sẽ phân tích về điểm số ở phần dưới. Thứ bậc đơn
lẻ chưa nói lên điều gì nhiều, cần phải có sự so sánh với bạn bè xung
quanh thì mới biết ta đang ở đâu. Bảng 1, liệt kê thứ bậc và điểm số
đánh giá của Việt Nam và các nước lân bang [2,3].
Bảng 1: Thứ bậc, Điểm đánh giá Chỉ số Đổi mới /Sáng tạo của Việt nam và các nước xung quanh
Năm
|
Số nước
|
Điểm cao nhất
|
Việt Nam
|
Malaysia
|
Singapore
|
Thailand
| ||||
Điểm
|
Bậc
|
Điểm
|
Bậc
|
Điểm
|
Bậc
|
Điểm
|
Bậc
| |||
2008
|
153
|
5.8
|
2.38
|
65
|
3.47
|
26
|
4.1
|
7
|
3.01
|
34
|
2009
|
130
|
5.28
|
2.97
|
64
|
4.06
|
25
|
4.81
|
5
|
3.4
|
44
|
2010
|
132
|
4.86
|
2.95
|
71
|
3.77
|
28
|
4.65
|
7
|
3.06
|
60
|
2011
|
125
|
74.1
|
36.71
|
51
|
44.05
|
31
|
74.11
|
1
|
43.33
|
48
|
2012
|
141
|
68.2
|
33.9
|
76
|
45.9
|
64.8
|
64.8
|
3
|
36.9
|
57
|
Vì tổng số nước được đánh giá hàng năm là khác nhau,cho nên không thể lấy thứ hạng tuyệt đối hàng năm để so sánh sự lên xuống của một nước, mà phải có một thước đo thống nhất. Chúng ta sẽ chia thế giới làm hai nửa bằng nhau, lấy đường phân chia làm gốc số không,thứ hạng được tính là bao nhiêu bậc trên (+) hoặc dưới (-) trung bình (số không). Thế vẫn chưa ổn, vì mỗi nửa hàng năm có tổng số bậc khác nhau, nên ta phải quy ra thành mỗi nửa đều có 100 bậc, và thứ bậc của mỗi nước hàng năm được quy thành số phần trăm trên (+) hoặc dưới (-) trung bình. Nói một cách hình ảnh, nếu thường xuyên ngụp lặn ở dưới mức trung bình thì nguy cơ được xem là một quốc gia thiểu năng trí tuệ chắc khó tránh khỏi.
Trên hình 1 ta có thể thấy trực tiếp sự kém cỏi của ta so với Malaysia cũng như Thailand, còn Singapore thì ở mức quá cao, so sánh thứ bậc chẳng có ích gì nữa.
Thứ hạng chỉ số đổi mới/sáng tạo của các nước có lúc tăng lúc giảm, nhưng khuynh hướng là tăng và luôn luôn trên trung bình, còn Việt Nam ta chủ yếu là ở nửa dưới, nhấp nhổm ngoi lên trên trung bình đôi chút, mà khuynh hướng nói chung là càng ngày càng giảm. Sự tăng đột biến năm 2011 có lẽ là nhờ năm đó chỉ có 125 nước tham gia xếp hạng, thấp nhất trong các năm.
Thứ hạng cho ta sự so sánh với cộng đồng, và căn cứ để xếp hạng là điểm số. Chính điểm số đánh giá chất lượng của thứ hạng. Tuy nhiên, việc chấm điểm hàng năm có thể khác nhau, thang điểm cũng có thể khác nhau, cho nên không có cách nào định điểm trung bình làm gốc. Chúng ta chỉ có thể lấy một nước nào đó để làm mốc so sánh chúng ta với nước đó hàng năm. Singapore là nước luôn nằm trong tốp 10 thế giới và số 1 châu Á. Vì vậy, hãy so sánh điểm số của Việt Nam với Singapore, ít nhất cũng cho ta cảm nhận Việt Nam được bao nhiêu phần của Singapore và khoảng cách đó giảm hay tăng. Nhìn vào hình 2, thấy rõ trí tuệ sáng tạo của ta chỉ bằng trên dưới một nửa của Singapore, và càng ngày càng lùi xa. Ngay cả năm 2011 mà chúng ta vui mừng, thì qua cách đánh giá bằng điểm số, chất lượng của thứ hạng vượt lên trung bình năm đó cũng không thực chất, vì khoảng cách với Singapore về điểm số lại giãn ra chứ không thu hẹp như vị trí thứ hạng.
Thật là đáng buồn khi những con số khách quan, tưởng như vô hồn đó lại đã nói lên rằng trí tuệ quốc gia Việt Nam đang ngụp lặn ở nửa dưới của thế giới và với xu hướng ngày càng chìm sâu, thụt lùi xa so với láng giềng, nếu cứ đà này tiếp diễn thì nguy cơ dẫn đến mức Việt Nam trở thành quốc gia trí tuệ kém phát triển là nhãn tiền!
Phải chăng trí tuệ của con người và dân tộc Việt Nam thấp?
Như đã biết, Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII- Global Innovation Index) được tính theo hai nhóm chỉ số con, là nhóm các chỉ số đổi mới/sáng tạo đầu vào và nhóm các chỉ số đầu ra. Có tổng cộng 7 tiêu chí (gốc) cơ bản.
Năm tiêu chí gốc tạo nên nhóm đầu vào (Innovation Input) đều gắn chặt với các yếu tố quản lý điều hành nhà nước và môi trường hoạt đông kinh tế quốc dân, tạo tiền đề cho các hoạt động đổi mới/sáng tạo. Đó là: (1) Các tổ chức nhà nước, (2) Nguồn lực con người, (3) Cơ sở hạ tầng, (4) Độ chín của thị trường, và (5) Mức hoàn thiện của kinh doanh.
Hai tiêu chí gốc hợp lại thành nhóm Đầu ra của đổi mới/sáng tạo (Innovation Output) [1] gồm: (6) Kết quả khoa học (Scientific outputs), (7) Thành quả sáng tạo (Creative outputs) .
Để tìm hiểu xem, nguyên nhân nào làm cho trình độ Đổi mới /Sáng tạo của Việt Nam kém cỏi như vậy, ta hãy xem xét vài tiêu chí cơ bản có ảnh hưởng nhiều nhất.
Nhóm đầu ra gồm kết quả khoa học và các thành quả của sáng tạo. Đó là những tiêu chí phản ảnh trí tuệ cũng như cách vận dụng trí tuệ để tạo ra kết quả sáng tạo. Nếu những tiêu chí này thấp tức trình độ trí tuệ con người ở đó thấp. Trong các tiêu chí đầu vào, thì hai tiêu chí về Các tổ chức Nhà nước (Institutions) và Nguồn vốn con người (Human Capital/Capacity) là rất quan trọng. Chẳng hạn về tổ chức, người ta phải đánh giá 3 tiêu chí nhánh: Môi trường chính trị, Môi trường điều hành, Môi trường kinh doanh. Đây đều thuộc về trách nhiệm của tổ chức nhà nước. Về Nguồn vốn con người thì phải đánh giá đến Giáo dục phổ thông, Đào tạo Đại học và dạy nghề, Nghiên cứu và triển khai. Việc đầu tư và chăm lo cho những nhiệm vụ này cũng là trách nhiệm chính của các cơ quan quản lý nhà nước. Những tiêu chí này tạo tiền đề cho Đổi mới /sáng tạo. Nếu những tiêu chí này thấp, thì Chỉ số Đổi mới sáng tạo không những không cao mà còn bị kéo thấp xuống. Có nghĩa làm trí tuệ của đất nước thụt lùi. Bảng 2 là số liệu của thế giới đánh giá Việt Nam về mặt Tổ chức, Vốn con người và Đầu ra đổi mới/sáng tạo [2,3].
Bảng 2 : Việt Nam - Điểm và thứ hạng của các tiêu chí Tổ chức, Vốn con người và Đầu ra sáng tạo
Năm
|
Số nước xếp hạng
|
Tổ chức nhà nước
|
Vốn về con người
|
Đầu ra sáng tạo
| |||
Điểm
|
Bậc
|
Điểm
|
Bậc
|
Điểm
|
Bậc
| ||
2009
|
130
|
3.38
|
99
|
3.82
|
69
|
2.52
|
63
|
2010
|
132
|
3.47
|
113
|
3.27
|
92
|
2.38
|
67
|
2011
|
125
|
54.9
|
84
|
31.7
|
85
|
33.34
|
42
|
2012
|
141
|
40.9
|
112
|
26.1
|
107
|
30.8
|
59
|
Chúng ta cũng sử dụng phương pháp chuẩn hóa số liệu như trình bày ở phần trên, và kết quả có một hình ảnh trực quan về ba yếu tố này như trình bày ở hình 3. Không khó khăn để nhận ra rằng chỉ số về Tổ chức và Nguốn vốn con người của Việt Nam chẳng những dưới trung bình mà có lúc còn nằm gần sát đáy nửa dưới. Trong lúc chỉ số đầu ra, đánh giá năng lực con người Việt Nam thì luôn nằm khá cao ở nửa trên của thế giới. Rõ ràng là trí tuệ của con người và dân tộc Việt Nam không hề thấp.
Nguyên nhân khiến chỉ số về trí tuệ của Việt Nam đang ngày càng thụt lùi không phải do con người Việt Nam kém cỏi mà là do sự bất cập của Tổ chức quản lý nhà nước và sự yếu kém trong chăm lo đầu tư cho Vốn con người.
Thay lời kết
Cộng đồng quốc tế phải thu thập phân tích hàng vạn số liệu, và chúng ta phải nghiền ngẫm hàng ngàn trang giấy, xây dựng mô hình tính toán xử lý hàng ngàn con số vô hồn chỉ để đưa ra một kết luận giản đơn ai cũng biết cả, về nguyên nhân yếu kém của hệ thống Đổi mới / sáng tạo quốc gia của Việt Nam. Nhìn lại thấy việc làm này thật là “ngớ ngẩn”, vì chỉ cần liếc mắt đã có thể dễ dàng thấy hiện tượng này khắp nơi. Chẳng hạn như ở vùng sâu, tận cuối đồng bằng sông Cửu Long, thầy Hải cùng 3 học trò trường THPT An Lạc Thôn (Kế Sách, Sóc Trăng) mày mò tự bỏ tiền của công sức sáng tạo nghiên cứu thành công công trình “Thu giữ dầu loang bằng thảm vỏ tràm”, rất hữu ích và đạt được giải thưởng. Không có tiền làm lộ phí đi nhận thưởng, thầy trò đăng báo xin tài trợ. Số tiền chắc không bằng một bữa nhậu của quan chức địa phương .Nhưng thầy trò chẳng những không nhận được sự hỗ trợ kinh phí nghiên cứu cũng như đi lại của chính quyền, thay vào đó là bị huyện yêu cầu kiểm điểm vì dám công khai xin tài trợ (làm xấu mặt quan chức) [4].
Đó chỉ là chuyện ở một nơi xa xôi hẻo lánh, dân trí và trình độ cán bộ còn thấp, bàn đến chuyện Đổi mới/Sáng tạo làm gì. Thế nhưng chuyện một vị giáo sư, Hiệu trưởng một trường Đại học hàng đầu ở Hà nội đã thở dài mà than “… Hà Nội vừa mới mua mấy trăm cái iPad thời thượng (hết hơn 3 tỷ!) để phát cho Đại biểu HĐND [5] mỗi người một cái (để làm gì...?). Trong khi đó cả năm nay, trường Đại học chúng tôi không được kho bạc Hà Nội giải ngân cho một xu để mua máy tính cho Sinh viên,Thầy giáo sử dụng cho học tập và nghiên cứu. Lý do họ bảo là phải tiết kiệm đầu tư công!”, thật đáng để suy ngẫm!
Khi một đất nước được xem là kém cỏi trong Đổi mới/Sáng tạo, thì đồng nghĩa với việc đất nước ấy không thể tự phát triển được. Nó chỉ tồn tại được bằng cách bán cho đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, vắt cho đến cùng cực sức cơ bắp để làm thuê cho người khác. Khi những thứ đó không còn nữa thì sao?
---
Tài liệu tham khảo:
[1] Thứ bậc của Trí tuệ Việt Nam trong bảng xếp hạng toàn cầu http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid= 111&CategoryID=2&News=4227
[2] 2012 Rankings http://www.globalinnovationindex.org/gii/main/2012rankings.html
[3] Previous Editions http://www.globalinnovationindex.org/gii/main/previous/
[4] Nỗi buồn thầy giáo bị kiểm điểm vì ‘làm bẽ mặt’ địa phương http://www.tienphong.vn/xa-hoi/583547/ Noi-buon-thay-giao-bi-kiem-diem-vi-lam-be-mat-dia-phuong-tpp.html
[5] Đại biểu HĐND Hà Nội dùng iPad nghìn USD để làm gì? http://vtc.vn/2-340630/xa-hoi/dai-bieu-hdnd-ha-noi-dung-ipad-nghin-usd-de-lam-gi.htm
No comments:
Post a Comment