Bauxit Việt Nam
11/01/2015
Vũ Trọng Khải
Chuyên gia độc lập về kinh tế nông nghiệp và PTNT
Ngôn ngữ thời thượng hiện đang rất thịnh hành trên các phương
tiện thông tin đại chúng và trong các lời phát biểu của các
vị lãnh đạo, quản lý ngành nông nghiệp các cấp là : “Tái cấu
trúc nông nghiệp” để thay đổi mô hình tăng trưởng, gia tăng giá
trị nông sản.
Ngành nông nghiệp được coi là một hệ thống trong hệ thống
lớn là nền kinh tế quốc dân. Hệ thống là một chỉnh thể bao
gồm các yếu tố liên kết với nhau theo một kiểu cấu trúc nào đó và tương tác với nhau trong quá trình vận hành theo một cơ chế quản lý tương thích, sao cho tạo ra được những thuộc tính mới về chất,
không có trong các thuộc tính vốn có của các yếu tố cấu
thành. Vì thế, tái cấu trúc (Restructuring) chỉ là thay đổi
kiểu cấu trúc và cơ chế vận hành của một chỉnh thể dựa trên
các yếu tố cấu thành hiện hữu. Cho nên, tái cấu trúc
chỉ đạt được mục tiêu khi các yếu tố cấu thành hiện hữu của
nó còn nhiều tiềm năng và được phát huy khi thay đổi kiểu cấu
trúc và cơ chế quản lý cho phù hợp với thực tế phát triển
khách quan, nhất là với môi trường tồn tại của hệ thống. Hiện
nay, nền nông nghiệp nước ta với các yếu tố cấu thành, như qui
mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, ruộng đất manh mún, công nghệ
và trang thiết bị sản xuất ở cả đầu vào và đầu ra đều lạc
hậu, nghề nông vẫn là nghề “ cha truyền con nối”, “lão nông”
mới “tri điền”; công nghiệp chế biến và buôn bán nông sản lạc
hậu, không liên kết với sản xuất nông sản nguyên liệu theo chuỗi
giá trị ngành hàng; các hình thức tổ chức sản xuất nông
nghiệp là trang trại (chủ yếu là trang trại gia đình), hợp tác
xã và doanh nghiệp chế biến, buôn bán nông sản trên thị trường
trong và ngoài nước còn yếu kém, lạc hậu về mọi mặt. Trong
khi đó môi trường kinh doanh nông sản đã thay đổi căn bản do những
tiến bộ vượt bậc trong công nghệ sản xuất và quản lý, do quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Nền kinh tế nói
chung và nền nông nghiệp nước ta nói riêng đang tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu trong thế yếu, vì chỉ đủ khả năng
xuất khẩu sản phẩm thô, không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm theo qui định của các nước phát triển, không truy
xuất được nguồn gốc, không có thương hiệu… Do vậy, giá trị gia
tăng thấp, càng hội nhập sâu vào thị trường toàn cầu, nền nông
nghiệp càng mang lại hậu quả xấu cả về kinh tế, xã hội và
môi trường, nông dân đã nghèo và càng nghèo hơn. Ví dụ, càng
trồng lúa nước nhiều với kỹ thuật canh tác lạc hậu, dùng
nhiều nước và phân bón hóa học, Việt Nam càng xả nhiều khí CO2, CH4, N2O
ra môi trường gây hiệu ứng nhà kính, góp phần phá thủng tầng
ozon, làm biến đổi khí hậu… Xuất khẩu lúa gạo là xuất khẩu
tài nguyên nước, làm tổn hại môi trường sống của người dân
Việt Nam. Do công nghệ sản xuất và quản lý lạc hậu, nên giá
gạo xuất khẩu thấp hơn giá gạo tiêu thụ trên thị trường trong
nước và thấp hơn giá gạo xuất khẩu của các nước khác. Do vậy
vô tình Việt Nam, mà trước hết là nông dân, đang “bù lỗ” cả
về giá và “phí môi trường” cho người dân nước nhập khẩu gạo
của Việt Nam, khiến cho nông dân nói riêng và Việt Nam nói chung
rơi vào tình trạng càng xuất khẩu nhiều gạo càng nghèo, môi
trường càng ô nhiễm nặng, tài nguyên càng nghèo kiệt. Nông dân
Việt Nam đang phải bất đắc dĩ làm “nghĩa vụ quốc tế về an
ninh lương thực” do sự khiếm khuyết của thể chế quản lý và
lại hậu về công nghệ trong thời đại toàn cầu hóa.
Vì thế, tái cấu trúc nông nghiệp vẫn dựa trên những yếu tố
cấu thành hiện hữu, sẽ không bao giờ mang lại hiệu quả kinh
tế, xã hội và môi trường như người ta mong muốn. Do đó, phải
tạo ra những yếu tố mới cho một cấu trúc mới của một chỉnh
thể mới. Điều đó gọi là xây dựng lại “(Reengineering hay
Perestroika) nền nông nghiệp. Cho nên, nhân bàn chuyện hôm nay, tôi
nhớ lại câu chuyện nông nghiệp cách đây gần 50 năm, gắn liền
với tên tuổi GS Bùi Huy Đáp, lúa xuân và vụ sản xuất nông
nghiệp mùa đông ở miền Bắc nước ta, như là một điển hình trong
việc xây dựng lại nền nông nghiệp cuối thập kỉ 60 và đầu
thập kỉ 70 của thế kỷ 20. Giống lúa xuân, ngắn ngày, thấp cây
cho năng suất cao từ viện lúa quốc tế (IRI) ở Philippines qua
nước bạn Cuba được du nhập vào nước ta, đã thay thế dần giống
lúa chiêm truyền thống, cao cây, dễ đổ, dài ngày, năng suất lại
thấp.
Thời đó, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp là ông Nguyễn Văn Lộc, ủy
viên dự khuyết trung ương Đảng Lao động. Bên cạnh ông Lộc, ở
Phủ Thủ tướng, còn có văn phòng nông nghiệp do ông Nguyễn Quang
Xá làm chủ nhiệm. Giúp việc đắc lực nhất cho Bộ trưởng
Nguyễn Văn Lộc là nhóm 4 người, được dân nông nghiệp thường gọi
là “Tứ trụ triều đình” của ông Lộc, bao gồm kĩ sư nông học
Bùi Huy Đáp, Viện trưởng Viện khoa học Nông nghiệp, kiêm vụ
trưởng Vụ Quản lý khoa học và kĩ thuật, kiêm Tổng biên tập
Tạp chí Khoa học nông nghiệp, Chủ tịch Hội đồng khoa học nông
nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp); bác sĩ thú y Trịnh Văn Thịnh,
phó vụ trưởng vụ khoa học và kĩ thuật, kiêm thư kí Hội đồng
khoa học nông nghiệp; ông Trần Quang, chánh văn phòng Bộ Nông
nghiệp, kiêm tổng chỉ huy các đoàn chỉ đạo sản xuất nông
nghiệp của Bộ tại các tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương;
Ông Nguyễn Duy Hiền, Quyền vụ trưởng vụ kế hoạch (thủ trưởng
trực tiếp của người viết bài này). Cần nói thêm là, thời kì
này, Bộ Nông nghiệp chủ trương đưa sinh viên vừa tốt nghiệp các
trường nông nghiệp tham gia đoàn chỉ đạo sản xuất của Bộ ở
các tỉnh, thành ,trong thời gian ít nhất là 2 năm. Lãnh đạo
các đoàn ở mỗi tỉnh là 1 cán bộ cấp vụ, cục, viện của Bộ
Nông nghiệp. Giống lúa xuân, ngắn ngày IR8 của IRI được nước
bạn Cu Ba cho Việt Nam, được đặt tên là NN8 (ở miền Nam lúc đó
gọi giống IR8 là giống “Thần nông”). Sau một vài vụ sản xuất
thử nghiệm, vụ đông xuân năm 1971, ông Bùi Huy Đáp cùng với nhóm
“Tứ trụ” đề nghị với Bộ trưởng Nguyễn Văn Lộc cho sản xuất
đại trà ở hầu hết các hợp tác xã nông nghiệp trên miền Bắc.
Lúc đó, miền Bắc phải nhận viện trợ từ các nước xã hội chủ
nghĩa hàng năm tới vài trăm ngàn tấn lương thực (gạo, bột
mì). Do đó, yêu cầu gia tăng sản lượng sản xuất lương thực,
trước hết là lúa gạo, hết sức cấp bách, là nhiệm vụ hàng
đầu của toàn ngành nông nghiệp miền Bắc. Trong nền kinh tế nhà
nước hóa cao độ, 95% ruộng đất canh tác thuộc về các hợp
tác xã, hợp tác xã phải sản xuất và có nghĩa vụ nộp thuế
bằng lương thực, bán lương thực cho ngành thương nghiệp quốc
doanh theo số lượng và mức giá do nhà nước quy định, không
được buôn bán lương thực tự do. Được Thủ tướng chính phủ đồng
ý, Bộ trưởng Lộc cùng với “Tứ trụ triều đình” mở “chiến
dịch” chỉ đạo các tỉnh, các hợp tác xã toàn miền Bắc trồng
lúa xuân thay cho vụ lúa chiêm trên diện rộng vào vụ đông xuân
1971. Giống và kĩ thuật canh tác lúa xuân NN8 được các đoàn
chỉ đạo sản xuất của Bộ Nông nghiệp tại các tỉnh và cán bộ
nông nghiệp ở địa phương (tỉnh, huyện…) triển khai đến từng hợp
tác xã.
Rất không may là vụ đông xuân 1971, miền Bắc rét đậm, kéo
dài. Gần đến tết âm lịch thời tiết vẫn lạnh giá, nếu cấy
trong thời tiết này, thất bại là “cái chắc”. Mạ xuân có nguy
cơ bị già (dân gọi là mạ ống), nếu cấy mạ già, thất bại
cũng là “cái chắc”. Các hợp tác xã và địa phương nao núng,
đòi cấy lúa chiêm, bỏ mạ xuân. Họ báo cáo lên Thủ tướng Phạm
Văn Đồng. Ông chủ nhiệm văn phòng nông nghiệp ở Phủ Thủ tướng
Nguyễn Quang Xá hàng ngày, liên tục gọi điện thúc giục Bộ
trưởng Lộc phải ra quyết định, cho các hợp tác xã trở lại
cấy lúa chiêm, mặc dù lúc đó cũng đã trễ thời vụ lúa chiêm.
Nhóm “Tứ trụ” kiên quyết giữ vững “lập trường”, thuyết phục
Bộ trưởng Lộc không thay đổi quyết định. Ông Bùi Huy Đáp nói
với ông Lộc và các địa phương, không sợ mạ xuân già, sau tết âm
lịch, thời tiết ấm, sẽ cấy lúa xuân… Dân gian đã có câu vè
râm ran khắp các hợp tác xã: “mạ xuân, xuân mãi không già, nghe
Bùi Huy Đáp bán nhà mà ăn”. Ông Bùi Huy Đáp và nhóm “Tứ trụ”
hàng ngày giải thích động viên ông Lộc. Ông Lộc hàng ngày trả
lời điện thoại ông Xá: phải kiên trì thực hiện chủ trương cấy
lúa xuân. Các đoàn chỉ đạo sản xuất của Bộ Nông nghiệp ở các
địa phương dưới sự chỉ đạo xát xao của ông Trần Quang, kiên
trì giải thích cho xã viên, lãnh đạo hợp tác xã và chính
quyền địa phương về chủ trương, biện pháp triển khai cấy lúa
xuân NN8 trên diện rộng. Ông Nguyễn Duy Hiền bảo đảm kế hoạch
cung cấp đủ phân bón hóa học, nhất là phân đạm, lân, cho các
diện tích cấy lúa xuân.
Quả thật, sau tết âm lịch, thời tiết ấm, cả ngành nông
nghiệp và bà con xã viên tập trung mọi lực lượng cấy lúa xuân
theo đúng lịch thời vụ mà ông Đáp đã chỉ đạo. Ơn trời, vụ
lúa xuân 1971 thắng lợi lớn, năng suất lúa NN8 cao vượt trội so
với lúa chiêm truyền thống đến 10-15%. Ông Lộc và nhóm “Tứ
trụ” thở phào, sung sướng. Các địa phương và bà con xã viên
hợp tác xã vui mừng khôn xiết. Họ có đối chứng ngay tại ruộng
của HTX mình. Vì giống lúa xuân NN8 chưa đủ để cấy hết diện
tích lúa; hơn nửa diện tích của HTX vẫn cấy giống lúa chiêm
truyền thống.
Rút kinh nghiệm vụ lúa xuân 1971, ông Đáp chủ trương làm mạ
khay, mạ sân, vừa tiết kiệm diện tích làm mạ, lại dễ chống
rét, vừa chủ động cung cấp đủ mạ theo lịch thời vụ cấy lúa
xuân mà không lo thời tiết lạnh giá, mạ bị chết hoặc ống
(già). Kết quả này là một trường hợp hi hữu của cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp nhưng không quan liêu!
Thời gian sản xuất lúa xuân được rút ngắn 20-30 ngày so với
lúa chiêm, thời vụ lại rơi vào mùa xuân. Do vậy, việc thay thế
lúa chiêm bằng lúa xuân mở ra khả năng tăng thêm vụ sản xuất
nông nghiệp thứ 3 trong mùa đông, thường gọi tắt là vụ đông. Ông
Bùi Huy Đáp và nhóm “Tứ trụ” tham mưu cho Bộ trưởng Lộc phát
triển vụ đông ở miền Bắc, theo công thức 2 vụ lúa nước (lúa
xuân và mùa sớm ngắn ngày) và 1 vụ cây trồng cạn trong vụ
đông, với nhiều loài rau màu rất đa dạng, như khoai tây, rau các
loại… Điều này đã mang lại lợi ích kinh tế lớn cho nông dân
miền Bắc, nơi có mức bình quân diện tích đất nông nghiệp trên
đầu người vào loại thấp nhất thế giới (khoảng 500-600m2 /nhân khẩu), đồng thời có tác dụng cải tạo đất rõ rệt.
Giống lúa ngắn ngày, năng suất cao nói chung và giống lúa
xuân nói riêng với vụ đông, chính là những nhân tố kĩ thuật
mới dẫn đến sự thay đổi hệ thống sản xuất nông nghiệp ở miền
Bắc. Nhưng thể chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp, quan
liêu và HTX dựa trên chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất và
các tư liệu sản xuất chủ yếu…, tất cả đã triệt tiêu động lực
sản xuất của nông dân xã viên, đến mức lúa chín rũ ngoài
đồng mà xã viên không muốn gặt. Thực tế ấy đã mách bảo các
nhà hoạch định chính sách nảy ra ý tưởng cho xã viên mượn đất
của HTX để làm vụ đông. Thành công đã đến bất ngờ trong mấy
vụ đông của những năm cuối thập kỉ 70 của thế kỉ 20. Thực tế
đó lại dẫn các vị lãnh đạo quyết định chấp nhận cơ chế
“khoán hộ” của ông Kim Ngọc, bí thư TU Vĩnh Phú năm 1968, nhưng
với cái tên “đẹp” là: “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và
người lao động trong HTX nông nghiệp”, bằng chỉ thị 100 của Ban
bí thư TW đảng tháng 1 năm 1981. Nhưng vì HTX vẫn là chủ thể
sản xuất trong cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, nên
chỉ sau vài năm, chỉ thị 100 đã hết ”thiêng”. Điều đó đã làm
cho yếu tố kĩ thuật mới (lúa xuân và vụ đông) không thể phát
huy hết vai trò của nó trong việc thay đổi cấu trúc nền nông
nghiệp miền Bắc lúc đó. Chỉ đến khi có Nghị quyết 10 (tháng
4/1988) của Bộ chính trị trung ương Đảng thừa nhận hộ nông dân
là đơn vị kinh tế tự chủ, các yếu tố mới về kĩ thuật sản
xuất nói chung, giống lúa ngắn ngày, vụ lúa xuân và vụ đông,
nói riêng…, mới có điều kiện phát huy hết khả năng của nó.
Nhưng sự thay đổi thể chế kinh tế của Chỉ thị 100 và Nghị
quyết 10 chỉ có ý nghĩa “cởi trói”.
Hiện nay, sau gần 30 năm đổi mới, các yếu tố về kĩ thuật
và thể chế kinh tế đã phát huy đến mức tới hạn. Vì vậy, cần
phải tạo ra những yếu tố mới về kỹ thuật và thể chế để xây
dựng lại nền nông nghiệp. Nói cách khác là, cần phải phát
triển nền nông nghiệp bằng việc tạo ra một hệ thống mới, có
cấu trúc và cơ chế quản lý dựa trên các yếu tố mới cả về
kĩ thuật và thể chế quản lí. Yếu tố mới đó là các biện
pháp kĩ thuật công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, bảo
quản, phân phối, tiêu thụ nông sản, do những nhà khoa học tạo ra
và được thương mại hóa, do những nông dân chuyên nghiệp áp dụng
trong các trang trại sản xuất hàng hóa qui mô lớn, được những
chuyên gia kĩ thuật và quản lý chuyên nghiệp thực hiện trong
các HTX và các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đầu vào-đầu ra
cho các trang trại của nông dân. Điều đó đảm bảo cho việc tạo
dựng một nền nông nghiệp áp dụng công nghệ cao, chứ không phải
là việc tạo ra các khu công nghiệp công nghệ cao để làm kiểng.
Yếu tố mới, do là việc tổ chức lại nền nông nghiệp theo
hợp đồng (contract farming) và quản lý theo chuỗi giá trị trong
mỗi ngành hàng nông sản trên mỗi vùng nông nghiệp sinh thái, từ
trang trại đến bàn ăn (hoặc mạn tàu xuất cảng). Trong đó, chủ
trang trại gia đình sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn và
các HTX của họ, các nhà quản trị các doanh nghiệp, ngân hàng
thương mại cung cấp dịch vụ đầu vào-đầu ra cho sản xuất nông
nghiệp (giống xác nhận, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo
vệ thực vật, thú y, khuyến nông, vốn tín dụng… mua, chế biến,
tiêu thụ nông sản trên thị trường trong và ngoài nước) là các
chủ thể của mỗi chuỗi giá trị ngành hàng nông sản.
Yếu tố mới, đó là nền nông nghiệp Việt Nam tham gia ngày
càng sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu với vị thế bình
đẳng, cùng có lợi, theo luật lệ quốc tế, nhờ áp dụng công
nghệ cao cả trong sản xuất, chế biến và quản lý.
Yếu tố mới, đó còn là vai trò kiến tạo phát triển của
nhà nước, như xây dựng chiến lược phát triển ngành hàng nông
sản quốc gia và qui hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng để thực
thi chiến lược sản phẩm đó, ở mỗi vùng nông nghiệp sinh thái,
chính sách tạo dựng thị trường mua-bán, cho thuê quyền sử dụng
ruộng đất…, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển
của các trang trại sản xuất nông sản hàng hóa qui mô lớn, áp
dụng công nghệ cao, thực thi Global Gap; chính sách đào tạo đội
ngũ nông dân chuyên nghiệp “thanh nông tri điền” thay thế đội ngũ
nông dân “cha truyền con nối”, những “lão nông tri điền”, tạo ra
nguồn cầu của thị trường đất nông nghiệp; chính sách tài
chính – tín dụng tạo điều kiện hình thành và phát triển các
doanh nghiệp áp dụng công nghệ cao, cung ứng dịch vụ đầu
vào-đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, đóng vai trò “nhạc trưởng”
trong việc tổ chức sản xuất theo hợp đồng và quản lý chuỗi
giá trị ngành hàng nông sản; chính sách phát triển các khu
công nghiệp-dân sinh ở mỗi vùng nông nghiệp sinh thái để vừa
tạo điều kiện hình thành và phát triển các doanh nghiệp phục
vụ nông nghiệp ở cả đầu vào-đầu ra, vừa thu hút, sử dụng sức
lao động nông nghiệp dỗi dư, tạo sinh kế mới, “an cư lạc
nghiệp” cho những nông dân li nông. Khi đó, họ mới bán hay cho
thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp, tạo nguồn cung cho thị
trường đất nông nghiệp; chính sách thu hút các nhà đầu tư tư
nhân xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt chú ý đến
giao thông đường bộ và đường thủy… theo hình thức “công-tư” kết
hợp; chính sách đầu tư nghiên cứu khoa học để có các giải
pháp công nghệ cao áp dụng trong tất cả các khâu của chuỗi giá
trị ngành hàng nông sản…
Thể chế quản lý mới phải đóng vai trò mở đường, tạo điều
kiện, khuyến khích cho sự ra đời của các yếu tố mới cấu
thành nên hệ thống nông nghiệp mới.
Tình thế hôm nay khác xa cái thời ông Bùi Huy Đáp chủ trương
phát triển lúa xuân thay cho lúa chiêm và mở rộng sản xuất nông
nghiệp vụ đông, cái thời Bộ chính trị ban hành Nghị quyết 10.
Nhưng bài học về tạo dựng ra những yếu tố mới và xây dựng
lại nền nông nghiệp từ thời ông Bùi Huy Đáp cùng nhóm “Tứ
trụ” của Bộ trưởng Nguyễn Văn Lộc ngày ấy, bây giờ vẫn còn
có giá trị cho câu chuyện “Tái cấu trúc nền nông nghiệp Việt
Nam”, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế.
01/2015
V.T.K.
Tác giả gửi BVN
Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam | |
Ngày đăng: 14/01/2015 | |
Xuất khẩu gạo khó ngay từ đầu năm.
Mới đầu năm, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã phải hạ giá sàn gạo XK. Điều này cho thấy XK gạo vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về mặt thị trường ngay từ những ngày đầu năm mới.
Thu hoạch lúa ở ĐBSCL
Giảm giá sàn vì nhu cầu yếu Hồi tháng 11 năm ngoái, VFA đã đưa ra giá sàn mới cho gạo XK là 380 USD/tấn (loại 25% tấm), giảm 30 USD/tấn so với giá sàn của loại gạo này được đưa ra vào tháng 7 cùng năm. Vừa qua, Hiệp hội này đã điều chỉnh lại giá sàn gạo 25% tấm xuống còn 360 USD/tấn, thời hạn bắt đầu áp dụng là từ 12/1/2015. Như vậy, so với mức giá sàn gần nhất, giá sàn mới đã giảm 20 USD/tấn và giảm tới 50 USD/tấn so với giá sàn hồi tháng 7 năm ngoái. Sở dĩ VFA phải giảm giá sàn gạo XK, chủ yếu là do nhu cầu trên thị trường hiện khá yếu trong khi nguồn cung lại bắt đầu tăng lên bởi đã có những diện tích lúa đông xuân sớm được thu hoạch. Trên thị trường thế giới, giá gạo XK Việt Nam vẫn đang có xu hướng giảm xuống. Đến ngày 10/1, giá gạo 5% tấm của Việt Nam chỉ còn 375-385 USD/tấn, gạo 25% tấm 345-355 USD/tấn... Giá gạo của các nước XK lớn cũng đang giảm: gạo 100%B của Thái Lan (tương đương gạo 5% tấm của Việt Nam) ở mức 420-430 USD/tấn, gạo 5% tấm của Ấn Độ 390-400 USD/tấn, gạo 5% tấm Pakistan 370-380 USD/tấn... Ông Lê Minh Trượng, GĐ Cty Lương thực Sông Hậu, cho hay, trong những ngày đầu năm này, hoạt động XK gạo khá ảm đạm. Các DN chỉ đang giao dịch những đơn hàng nhỏ lẻ. Trong khi đó, những nhà NK lớn vẫn đang có ý trông chờ giá gạo Việt Nam giảm xuống thêm nữa. Việc thiếu vắng những hợp đồng tập trung cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đầu ra của hạt gạo Việt Nam. Theo VFA, đến hết năm 2014, những đơn hàng đã ký để XK trong đầu năm 2015 hầu hết vẫn là những hợp đồng thương mại, mà chưa có những hợp đồng tập trung. Vì thế, XK gạo trong quý 1 năm nay chắc chắn sẽ rất khó khăn. Đẩy mạnh thị trường châu Phi Trước tình hình đó, việc tìm kiếm đầu ra cho hạt gạo ngay từ đầu năm là vấn đề cấp thiết, nhất là khi Trung Quốc - thị trường lớn nhất của gạo Việt Nam trong mấy năm qua, đang ngày càng siết chặt mua bán qua đường tiểu ngạch, đồng thời gia tăng NK chính ngạch từ nhiều nguồn cung, khiến cho gạo Việt Nam XK sang nước này trong năm nay sẽ gặp nhiều khó khăn và có nguy cơ giảm. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với gạo của Thái Lan, Ấn Độ và Pakistan cũng là những khó khăn lớn cho XK đầu năm nói riêng và cả năm nói chung. Trong bối cảnh này, các thị trường châu Phi, Tây Á và Nam Á đang được chú ý tới nhiều hơn, nhất là thị trường châu Phi. Trong năm 2014, gạo Việt Nam XK sang châu Phi bị giảm tới 80%, do Thái Lan xả hàng gạo tồn kho với giá rẻ. Các nước Ấn Độ, Pakistan cũng giảm giá để bán vào thị trường này. Dầu vậy, theo đánh giá của Vụ Thị trường châu Phi (Bộ Công thương), Tây Á và Nam Á vẫn có nhiều cơ hội cho gạo Việt Nam thâm nhập vào châu Phi. Bởi với giá cả ở mức không quá cao, gạo đang ngày càng trở thành loại lương thực phổ biến trong bữa ăn hàng ngày của người dân nhiều nước ở châu lục này. Phần lớn các nước có nhu cầu NK gạo ở châu Phi lại thường NK gạo trắng có phẩm cấp và giá vừa phải, phù hợp với khả năng cung ứng của Việt Nam. Từ năm 2009 đến nay, mỗi năm, châu Phi NK tới 8-10 triệu tấn gạo, phần lớn là gạo 25% tấm. Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, trong năm 2015, nhu cầu NK gạo của châu Phi vẫn tiếp tục tăng lên. Trong đó, riêng khu vực hạ Sahara được dự báo sẽ NK gạo ở mức kỷ lục với 12,75 triệu tấn. Để gạo Việt Nam có thể thâm nhập trở lại và đứng vững trên thị trường châu Phi, Bộ Công thương đang đẩy mạnh đàm phán và ký kết Bản ghi nhớ (MOU) về thương mại gạo với nhiều nước thuộc châu lục này như Bờ Biển Ngà, Congo, Kenya, Angola, Mozambique, Madagascar... Đồng thời, theo dõi, đôn đốc và hỗ trợ doanh nghiệp đầu mối hai bên thực hiện các MOU về thương mại gạo đã ký với Sierra Leone, Guinea và Comoros... Hỗ trợ doanh nghiệp thành lập công ty, mở kho ngoại quan gạo tại một số thị trường trọng điểm như Cameroon, Angola, Mozambique..., để tiêu thụ gạo trực tiếp. Hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai đề án đổi gạo Việt Nam lấy điều châu Phi... Nguồn NongNghiep.vn |
No comments:
Post a Comment