Thứ Hai, 15/12/2014 - 10:29
Ngốn hàng nghỉn tỷ đồng/năm, khoa học nông nghiệp vẫn “dậm chân”?
Dân trí - Trước chất vấn, hiện có cả chục nghìn cán bộ khoa học nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, tiền đầu tư mỗi năm hàng nghìn tỷ đồng mà thành tựu chưa đáng kể, Bộ trưởng KH-CN Nguyễn Quân giải thích, 30-40% số tiền đó phải dùng chi thường xuyên, chỉ 60% dành cho hoạt động nghiên cứu.
Bộ trưởng KH-CN Nguyễn Quân là người đăng đàn trong chương
trình “Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời” trên truyền hình quốc gia tối 15/12.
Một người nông dân chất vấn Bộ trưởng Quân: “Báo cáo của Bộ KH-CN cho
biết, Việt Nam hiện có khoảng trên 10.000 cán bộ khoa học đang trực
tiếp nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp. Tiền đầu tư theo báo cáo của
Bộ cũng lên tới hàng nghìn tỷ đồng/năm. Tôi là nông dân nên thấy số
tiền đó rất lớn. Tại sao khoa học công nghệ phục vụ cho nông nghiệp của
chúng ta đến thời điểm này vẫn chưa thấy có thành tựu gì đáng kể, cảm
giác như vẫn giậm chân tại chỗ? Tôi vẫn cày ruộng bằng trâu, mua giống
và phân bón của nước ngoài, vẫn phải đối mặt với chuyện mất mùa, mất giá
vì không có cách bảo quản sau thu hoạch hoặc không có đầu ra ổn định”.
Câu hỏi này cũng từng được đặt ra với Bộ trưởng KH-CN khi thực tế,
lĩnh vực khoa học công nghệ luôn được dành cho khoản đầu tư bằng 2% GDP
(GDP Việt Nam hiện khoảng 200 tỷ USD/năm) và nhiều ý kiến cho rằng tiền
tiêu không hết, kết dư lớn.
Về kinh phí dành cho hoạt động nghiên cứu, Bộ trưởng KH-CN cũng “bác”
con số hàng nghìn tỷ đồng nêu ra. Lý do, khoản tiền dành cho ngành bao
gồm cả khoản chi thường xuyên (chiếm 30-40%) nên chỉ còn trên dưới 60%
dành cho hoạt động nghiên cứu, bao gồm hoạt động cấp Bộ và cấp Nhà nước.
“Nếu tính trên 10.000 cán bộ nghiên cứu hay trên 100 Viện, Trung tâm
nghiên cứu của Bộ NN&PTNT thì lượng kinh phí này là rất nhỏ” – Bộ
trưởng Nguyễn Quân phân trần.
Ngoài ra, Bộ trưởng Quân cũng không tán thành với nhận định khoa học
nông nghiệp vẫn “dậm chân”. Ông Quân phân tích: “Tuy còn nhiều bất cập
trong hoạt động ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nhưng nếu
nói ngành nông nghiệp của ta chưa phát triển gì đáng kể thì chưa thật
khách quan. Bởi vì từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, hiện nay nước ta đã
có thứ hạng trong xuất khẩu gạo”.
Người đứng đầu ngành KH-CN cũng dẫn nhiều con số chứng minh, một năm
Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng nông sản và thủy sản đạt khoảng 30 tỷ
USD, chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nếu hàng nông sản,
thủy sản của Việt Nam không đạt tiêu chuẩn quốc tế thì không thể xuất
khẩu được số lượng lớn như vậy.
Việt Nam có nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp lớn như Công ty Bảo vệ
thực vật An Giang có 2 viện nghiên cứu. Ở phía Bắc có các đơn vị khoa
học công nghệ ở Thái Bình, Nghệ An. Những đơn vị này đã làm rất tốt việc
đầu tư khoa học công nghệ cho nông nghiệp và có hiệu quả lớn.
Thông tin thêm về kết quả 1 năm triển khai công nghệ bảo quản nông
sản tiên tiến nhất của Nhật Bản, Israel để nâng cao giá trị sản phẩm cho
người nông dân, chống hiện tượng được mùa mất giá, Bộ trưởng Nguyễn
Quân khái quát: “thời gian 1 năm đúng là dài nhưng để làm chủ 1 công
nghệ và đưa vào ứng dụng sản xuất trên quy mô công nghiệp thì cũng không
phải là dài”.
Bộ trưởng KH-CN điểm lại mốc thời gian đầu năm 2013, Bộ KH-CN đã tiếp
cận công nghệ CAS của Nhật Bản và công nghệ của hãng Juran (Israel)
trong bảo quản thực phẩm và đã làm chủ được công nghệ CAS và đã thí
nghiệm thành công trên cá ngừ, tôm sú và quả vải thiều.
Ông Quân cho biết, vụ vải vừa qua, một container vải thiều được bảo
quản theo công nghệ CAS đã đến thị trường Nhật Bản và được đánh giá cao.
Kết quả với cá ngừ cũng tương tự.
“Hiện chúng tôi đang chuẩn bị đầu tư nhà máy bảo quản cá ngừ theo
công nghệ CAS ở Phú Yên. Chúng tôi hy vọng việc tự sản xuất được thiết
bị câu cá ngừ đại dương cùng với nhà máy sử dụng công nghệ CAS, sắp tới
cá ngừ của Phú Yên và Bình Định sẽ được bán sang Nhật Bản với số lượng
nhiều và chất lượng tốt hơn” – Bộ trưởng Nguyễn Quân nói.
Sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của cây trồng biến đổi gen
Ở Việt Nam trong
nhiều năm qua đã trồng khảo nghiệm 3 loại cây là bông, đỗ tương và ngô.
Đối với cây ngô, đỗ tương thì có nhiều ý kiến trái chiều. Cho tới thời
điểm này chưa có nghiên cứu nào cho thấy cây ngô và đỗ tương biến đổi
gen có ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Thực tế trong nhiều thập kỷ
qua, Hoa Kỳ và Nhật Bản và một số nước khác cho canh tác cây trồng biến
đổi gen trên diện tích rất lớn.
Tuy nhiên, lo ngại
là đúng vì Việt Nam bị phụ thuộc về giống bởi chưa làm chủ công nghệ về
giống đối với cây trồng biến đổi gen. Vì thế, song song với việc cho
phép trồng cây trồng biến đổi gen, lực lượng làm công tác nghiên cứu
khoa học của chúng ta phải nhanh chóng làm chủ được khoa học công nghệ
để tự túc được giống, đồng thời vẫn phải nghiên cứu những ảnh hưởng của
cây trồng biến đổi gen đối với sức khỏe con người.
|
P.Thảo
http://dantri.com.vn/xa-hoi/ngon-hang-nghin-ty-dongnam-khoa-hoc-nong-nghiep-van-dam-chan-1008068.htm
Phát triển nông nghiệp - vấn đề còn ở phía trước
Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước
nông nghiệp theo đúng nghĩa với khoảng hơn 70% dân số gắn với nông
nghiệp, nông thôn. Xét về đại cục, nông nghiệp vẫn thể hiện vai trò là
“trụ đỡ” của nền kinh tế đất nước, nhất là trong những giai đoạn khủng
hoảng như đã và đang xảy ra. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của nông
nghiệp nước ta trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung. Cũng
có nghĩa là, nếu sản xuất nông nghiệp trì trệ, ách tắc, không phát
triển và không có hiệu quả thì tình hình kinh tế - xã hội của đất nước
sẽ gặp rất nhiều khó khăn và chứa đựng những nguy cơ về sự bất ổn xã
hội.
Nhìn một cách tổng thể, đời sống của đại bộ phận người dân đã được cải
thiện, cảnh thiếu đói triền miên như trước đây hầu như không còn nữa.
Mặc dù vậy, cho đến nay nông nghiệp vẫn là lĩnh vực chịu nhiều thiệt
thòi nhất; nông dân vẫn là tầng lớp chịu nhiều khó khăn nhất. Tình trạng
nông dân không còn thiết tha với những mảnh ruộng vốn đã gắn bó từ bao
đời với các thế hệ trong gia đình và ở làng quê họ, là một thực tế đã và
đang diễn ra, chứng tỏ rằng nghề nông đã trở nên…quá khó đối với kế
sinh nhai của người nông dân, không đáp ứng yêu cầu phát triển chung của
xã hội. Và, như thế vấn đề Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn vẫn chưa
được giải quyết thỏa đáng nếu không nói là còn nhiều bất cập, nhiều vấn
đề bức xúc.
Đầu tư dàn trải và chưa tương xứng
Có một thực tế là, nền nông nghiệp của nước ta trong hàng chục năm qua,
ngoại trừ về thủy lợi và giao thông nông thôn có được cải thiện, hầu như
chưa có những chuyển biến đáng kể nào, nhất là đối với các tỉnh miền
Bắc. Sản xuất nhỏ là chủ yếu, các yếu tố cơ bản trong sản xuất nông
nghiệp vẫn chưa chủ động được, hoặc chỉ chủ động được một phần. Chính vì
vậy mà khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp nước ta còn
thấp so với ngay các nước trong khu vực (chứ chưa nói các nước trên thế
giới).
Nguyên nhân của thực trạng trên thì nhiều, nhưng cái chính là chúng ta
thiếu một chiến lược phát triển nông nghiệp hợp lý và thiếu tầm nhìn xa
trông rộng, cho nên sự quan tâm đầu tư cho sản xuất nông nghiệp trong
những năm qua vừa chưa tương xứng, vừa thiếu tập trung, còn dàn trải nên
ít hiệu quả. Số liệu thống kê thời gian qua cho thấy, vốn đầu tư của
toàn xã hội cho nông nghiệp chưa xứng tầm, từ 13,8% năm 2000 giảm xuống
còn 6,2% năm 2010 và còn 6% năm 2011; đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước
và trái phiếu Chính phủ cho nông nghiệp, nông thôn có tăng, nhưng lại
dàn trải, thiếu tập trung và kém hiệu quả. Trong khi đó, đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) thấp, tỷ trọng giảm từ 8% năm 2001 xuống còn dưới
1% năm 2012, nguyên nhân chủ yếu là do nguồn lực ở nông thôn ở ta trình
độ còn thấp nên các nhà đầu tư lo ngại nếu đầu tư sẽ không có lợi nhuận
hoặc lợi nhuận thấp. Đầu tư để phát triển một nền nông nghiệp hiện
đại với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, trước hết phải chú trọng
đầu tư về khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến sản phẩm nông
nghiệp. Tránh tình trạng đang diễn ra là “được mùa rớt giá, được giá lại
mất mùa”. Từ nhiều năm nay, nhiều sản phẩm nông nghiệp vẫn tồn tại
nghịch lý ấy khiến cho sản xuất của nông dân bấp bênh, không những không
đảm bảo mức lợi nhuận cần thiết, mà nhiều khi còn bị lỗ nặng do sản
phẩm không thể tiêu thụ kịp thời hoặc bị sụt giá tới dưới mức giá thành
sản xuất. Thực tế ấy ai cũng biết, các ngành chức năng chắc chắn cũng
biết, thậm chí rất biết. Song, hết năm này qua năm khác vẫn chỉ là “biết
rồi…khổ lắm…nói mãi”. Mặt hàng nông sản chủ lực là gạo, rồi một số nông
sản khác như: vải, dưa hấu, hạt điều, cà phê…đều phải đối mặt với tình
trạng nêu trên. Thiết nghĩ đây là một “lỗ hổng” trong việc đầu tư khoa
học công nghệ cho công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản ở nước ta.
Tại sao lại không quyết tâm đầu tư một lần cho ra đời một vài cái nhà
máy chế biến hoa quả với công nghệ hiện đại (nếu công nghệ ta chưa chủ
động được thì mua cả một dây chuyền, một nhà máy tiên tiến của nước
ngoài cũng có sao đâu) để vừa chủ động “đầu ra” cho nông dân, vừa nâng
cao giá trị sản phẩm, thay vì bán sản phẩm thô vừa giá trị thấp, vừa bị
động khi tiêu thụ? Đương nhiên phải xem xét cả bài toán kinh tế để nhà
máy có thể đảm nhận nhiều chức năng, vì hoa quả cũng có mùa vụ của nó.
Nếu như không thể đầu tư như vậy được (vì một lý do bất khả kháng nào
đó) thì cũng phải tập trung đầu tư khoa học công nghệ để làm sao chấm
dứt được tình trạng bất cập kéo dài này vốn không giúp ích được gì cho
nông dân ? Có lẽ đó không phải là lỗi hay là sự yếu kém của các nhà khoa
học nước ta. Vấn đề là chính sách, là cơ chế đầu tư; là biết thực sự
coi trọng lợi ích chính đáng và cần thiết của nông dân, nông nghiệp.
Trong những yếu tố khiến gạo xuất khẩu của nước ta vừa không có giá trị
cao, vừa không ổn định về thị trường, có khâu chế biến chưa đáp ứng được
về công nghệ nên hạt gạo của ta không cạnh tranh được với gạo của Thái
Lan; bên cạnh đó là tình trạng độc quyền dẫn đến thiếu trách nhiệm của
một số doanh nghiệp xuất gạo ở trong nước…
Còn có một thực tế nữa là nhiều mô hình sản xuất khi còn tham gia một dự
án nào đó thì cho hiệu quả cao, nhưng đến khi dự án kết thúc thì mô
hình cũng kết thúc luôn - một sự lãng phí rất đáng tiếc trong đầu tư.
Lại cũng có những trường hợp kết quả một đề tài nghiên cứu khoa học đã
được đánh giá cao sau nhiều năm đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm, nhưng sau
cái hội nghị, hội thảo thành công ấy, kết quả nghiên cứu lại bị cho vào
ngăn kéo, trong khi thực tế cần một công nghệ hay một ứng dụng như
vậy…Không thể nói điều đó tại các nhà khoa học được.
Đầu tư tập trung, có trọng điểm, đầu tư đến cùng, hoàn thành và mang lại
hiệu quả trong thực tế sản xuất rồi mới tập trung đầu tư cho vấn đề
khác, để tránh tình trạng lâu nay là đầu tư dàn trải - cái gì cũng có,
nhưng cuối cùng lại chẳng có cái gì (do đều dở dang cả). Nếu không có
ngay một chính sách khác hợp lý về đầu tư cho nông nghiệp thì hiệu quả
của các mô hình chẳng những không cao mà còn gây lãng phí lớn tiền của
của Nhà nước.
Để người nông dân gắn bó với ruộng đồng
Để người nông dân tiếp tục gắn bó với đồng ruộng một cách thực sự tâm
huyết và yêu nghề, nhất thiết phải tạo điều kiện để sản xuất nông nghiệp
có lãi (có thể là lợi nhuận 30% như lâu nay ta vẫn nói); phải làm sao
để từ sản xuất nông nghiệp, đời sống của người nông dân phải ổn định và
đi lên theo sự phát triển chung của xã hội, của đất nước; thậm chí người
nông dân chịu thương chịu khó, có tính sáng tạo có thể làm giàu được
trên đồng đất của mình.
Thực tế sản xuất nông nghiệp hiện nay, để có thể phát huy hiệu quả các mô hình sản xuất, hoặc đưa khoa học - công nghệ vào sản xuất nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thì rất cần phải có vai trò của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau hơn 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách thu hút doanh nghiệp vào khu vực này, song kết quả còn rất hạn chế. Vấn đề là doanh nghiệp chưa thấy có thuận lợi đáng kể nào cho quá trình đầu tư vào nông nghiệp, họ vẫn cảm thấy việc đầu tư vào nông nghiệp là rất mạo hiểm khi ẩn chứa quá nhiều rủi ro, khi phụ thuộc quá nhiều vào thiên nhiên, lượng vốn đầu tư lớn mà thu hồi vốn lại chậm… Mặt khác, công tác quy hoạch ngành nông nghiệp cần được tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và đảm bảo phát triển bền vững, không có tình trạng nay thế này, mai thế khác. Một vấn đề nữa không thể coi nhẹ là Nhà nước cần có chính sách và đầu tư cụ thể nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người nông dân, giúp thay đổi tư duy của họ theo hướng đổi mới, nâng cao tính hiệu quả, tính chủ động, sáng tạo, tự lực tự cường.
Các nhà nghiên cứu quản lý cho rằng, điều cần nhất đối với nông dân lúc này là trình độ dân trí. Bởi nếu không có trình độ dân trí, nông dân không thể cảm nhận được các giá trị văn hóa, rất khó tiếp thu đầy đủ kiến thức về khoa học, kỹ thuật công nghệ mới để áp dụng vào sản xuất ngay trên thửa ruộng của mình. Họ cũng cần cả kỹ năng sống, cần có hiểu biết về kinh doanh…Về phía Nhà nước, cần có chính sách và biện pháp đảm bảo nguồn thu nhập ổn định cho nông dân thông qua sản xuất nông nghiệp; thậm chí để nếu cố gắng, họ có thể làm giàu được trên đồng đất của mình thông qua chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư chuyển đổi cây trồng, vật nuôi…Cùng với đó, ngành nông nghiệp với vai trò điều hành, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, cần phối hợp với các ngành, các cấp để xây dựng cho được các mô hình sản xuất, chăn nuôi cho từng vùng: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển, hải đảo theo hướng sản xuất hàng hóa và nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững trong phát triển. Từ việc tổng kết các mô hình hiệu quả để có thể nhân rộng ra cả nước. Thực hiện những cơ chế chính sách khuyến khích một cách cụ thể (có thể áp dụng hình thức đặt hàng với các nhà khoa học) để các nhà khoa học đầu tư chất xám cho sản xuất nông nghiệp và có thể đưa ngay được những kết quả tốt, những công nghệ phù hợp vào sản xuất mà không gặp cản trở nào, từ việc chọn lựa, lai tạo giống cho sản xuất tới việc phổ biến ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản…
Thực hiện tốt những vấn đề đó cũng là đầu tư tập trung cho nông nghiệp với điều kiện đã làm là phải làm đến nơi đến chốn, không làm nửa vời theo kiểu “đầu voi đuôi chuột”.
Thực tế sản xuất nông nghiệp hiện nay, để có thể phát huy hiệu quả các mô hình sản xuất, hoặc đưa khoa học - công nghệ vào sản xuất nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thì rất cần phải có vai trò của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau hơn 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách thu hút doanh nghiệp vào khu vực này, song kết quả còn rất hạn chế. Vấn đề là doanh nghiệp chưa thấy có thuận lợi đáng kể nào cho quá trình đầu tư vào nông nghiệp, họ vẫn cảm thấy việc đầu tư vào nông nghiệp là rất mạo hiểm khi ẩn chứa quá nhiều rủi ro, khi phụ thuộc quá nhiều vào thiên nhiên, lượng vốn đầu tư lớn mà thu hồi vốn lại chậm… Mặt khác, công tác quy hoạch ngành nông nghiệp cần được tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và đảm bảo phát triển bền vững, không có tình trạng nay thế này, mai thế khác. Một vấn đề nữa không thể coi nhẹ là Nhà nước cần có chính sách và đầu tư cụ thể nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người nông dân, giúp thay đổi tư duy của họ theo hướng đổi mới, nâng cao tính hiệu quả, tính chủ động, sáng tạo, tự lực tự cường.
Các nhà nghiên cứu quản lý cho rằng, điều cần nhất đối với nông dân lúc này là trình độ dân trí. Bởi nếu không có trình độ dân trí, nông dân không thể cảm nhận được các giá trị văn hóa, rất khó tiếp thu đầy đủ kiến thức về khoa học, kỹ thuật công nghệ mới để áp dụng vào sản xuất ngay trên thửa ruộng của mình. Họ cũng cần cả kỹ năng sống, cần có hiểu biết về kinh doanh…Về phía Nhà nước, cần có chính sách và biện pháp đảm bảo nguồn thu nhập ổn định cho nông dân thông qua sản xuất nông nghiệp; thậm chí để nếu cố gắng, họ có thể làm giàu được trên đồng đất của mình thông qua chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư chuyển đổi cây trồng, vật nuôi…Cùng với đó, ngành nông nghiệp với vai trò điều hành, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, cần phối hợp với các ngành, các cấp để xây dựng cho được các mô hình sản xuất, chăn nuôi cho từng vùng: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển, hải đảo theo hướng sản xuất hàng hóa và nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững trong phát triển. Từ việc tổng kết các mô hình hiệu quả để có thể nhân rộng ra cả nước. Thực hiện những cơ chế chính sách khuyến khích một cách cụ thể (có thể áp dụng hình thức đặt hàng với các nhà khoa học) để các nhà khoa học đầu tư chất xám cho sản xuất nông nghiệp và có thể đưa ngay được những kết quả tốt, những công nghệ phù hợp vào sản xuất mà không gặp cản trở nào, từ việc chọn lựa, lai tạo giống cho sản xuất tới việc phổ biến ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản…
Thực hiện tốt những vấn đề đó cũng là đầu tư tập trung cho nông nghiệp với điều kiện đã làm là phải làm đến nơi đến chốn, không làm nửa vời theo kiểu “đầu voi đuôi chuột”.
Đặng Đình Chấn
No comments:
Post a Comment