Wednesday, June 12, 2013

Thương nhớ anh - Cù Huy Hà Vũ

 

11/06/2013

TÂM SỰ CỦA NGƯỜI KHÔNG QUEN BIẾT GỞI TÙ NHÂN CÙ HUY HÀ VŨ: THÀ BỊ GIẾT CHẾT, CHỨ KHÔNG “TỰ CHẾT”

Hạ Đình Nguyên

Theo dõi trên mạng, tôi biết không nhiều về cuộc đấu tranh của anh, nhưng khi đọc thư tuyệt mệnh của anh về cuộc tuyệt thực mà anh đang tiến hành trong tù, tôi thật sự xúc động.

Vì là người cũng đã trải qua tù đày, nên tôi hiểu và tin lời lẽ trong thư của anh, anh rất quyết liệt với hành động tuyệt thực này. Tôi lo cho anh quá, và khá buồn vì nhiều lẽ.

Tôi mạo muội có đôi lời chia sẻ cùng anh.

Chắc anh đã từng nghe nói về cảnh tù tội trong Nam đối với những người kháng chiến “chống Mỹ cứu nước” của một thời gian khổ Mặt trận Giải phóng Miền Nam, mà tôi cũng là một thành viên bé mọn trong ấy. Tôi có trải qua nhưng cũng không thể nào biết hết các kiểu đau thương của cái gọi là tù tội, tuy có thể tạm biết thế nào là hậu quả của chiến tranh, một cuộc đọ sức có tính chất định mệnh, và những gì ở bên dưới các chiến thắng, dù là chiến thắng của phía nào. Tôi nghe nói về những cách tra tấn, cách giam cầm hết sức khủng khiếp của chế độ Miền Nam vào thập niên 1955-1965. Nhưng sau đó, tôi có trải qua “thực nghiệm” nên có vài ghi nhận, theo cái biết của mình, một số điều sau đây.

Khi tôi vào tù, thì “chế độ tù” được mô tả ở giai đoạn trước1965, nay đã có phần thay đổi, có cải tiến khá hơn, so với thời Ngô Đình Diệm. Tôi có hưởng được chế độ tù cải tiến ấy, không nghiệt ngã như giai đọan trước. Nhưng vì lý do gì đưa đến sửa đổi này? Do sự đấu tranh của người tù? Do sự quan tâm và áp lực của dân chúng? Do sự “tự tiến bộ” của nhà cầm quyền lúc ấy? Tôi không tin nhiều về lý do thứ ba. Hay là do sự hiện diện trực tiếp nhiều hơn của người Mỹ, từ khi họ ào ạt đổ quân vào Việt Nam từ 1965 trở về sau? Tôi không quá ngây thơ để tin rằng “Đế quốc Mỹ” là thuần khiết tốt với Việt Nam, hay “vì Việt Nam”. Họ vì chiến lược chống Chủ nghĩa Cộng sản bành trướng, họ nghĩ thế, và muốn có một cơ chế xã hội ở miền Nam tương đối giống họ, nằm trong khung Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, với lý tưởng của Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền. Họ muốn có một xã hội Miền Nam có tự do, dân chủ và phát triển để người dân không theo Cộng sản, họ nghĩ thế. Họ lật đổ nhà Ngô vì cho là độc tài không chinh phục được lòng dân. Họ làm nhiều việc để nâng tầm chế độ ấy lên, tuy kết quả toàn cục không đến đâu, nhưng riêng về chế độ lao tù có nhiều cải tiến. Năm 1970, một phái đoàn Nghị sĩ Mỹ qua Việt Nam điều tra và tố cáo chế độ hà khắc ở nhà tù Côn Đảo, sau đó, chế độ “chuồng cọp” khốc liệt nhất tại đây bị bãi bỏ (Tôi chỉ nêu một thí dụ sơ sài, trong phạm vi bức thư này).

Về sự tra tấn tù nhân và chế độ giam giữ tù nhân

Tôi thấy có một vài cách biệt đáng nói.

- Điều tra, tra tấn

Ngành an ninh điều tra của họ có nhiều phương pháp và thủ thuật tra tấn rất dã man, nhất là đối với đối tượng Cộng sản mà họ “đặt ra ngoài vòng pháp luật” theo Hiến pháp của họ. Họ nhằm vào tra tấn thể xác với nhiều đòn tàn độc, cũng uy hiếp và trấn áp tinh thần, cũng tấn công vào tình cảm thiêng liêng của người thân, với mục đích moi thông tin từ đối tượng cho bằng được. Họ rất cần chứng cứ. Chứng cứ thật sự đối với họ là quan trọng, vì họ phải ứng xử, đối phó với thanh tra ngành, với cấp trên, với tòa án, với báo chí, với các phe nhóm khác, bởi Miền Nam lúc bấy giờ đã bước đầu hình thành một xã hội công dân, với thiết chế chính trị cơ bản là Tam quyền phân lập, dù không thể nói là hoàn hảo. Đối với đối tượng chính trị được cho là “nguy hiểm”, tuy cấp trên có thể cho phép họ tra tấn đến chết nhưng xác định người nào được giao quyền này, chứ không phải ai cũng có quyền đánh, có quyền tra tấn, có quyền hành hạ tù nhân. Và khi tra khảo, họ không căm thù “con người”, mà căm tức cái đầu của đối tượng, cái niềm tin lý tưởng ở trong đó mà họ không hiểu nổi, không cảm hóa được, nên họ gọi đối tượng ấy là “bị tẩy não”. Nhưng sẩy tay, sai người, sai quy định lập tức bị cách chức, hạ cấp bậc, thi hành kỷ luật theo luật định, không có sự thu xếp tự bên trong; họ không dám hành xử cẩu thả do không có sự độc quyền lãnh đạo của một đảng nào. Họ rất dè dặt với dư luận quần chúng, rất ngại giới báo chí, rất sợ các cơ quan lập pháp (Nghị sĩ, Quốc hội) và cơ quan Tư pháp (Tòa án các cấp). Ví các cơ quan này độc lập với cơ quan Hành pháp, theo Hiến pháp quy định. Cũng có những hiện tượng chạy chọt qua mối thân quen, hoặc đút lót tiền bạc, để cứu vớt những đối tượng bị bắt có chứng cứ mơ hồ. Nhưng đối với tù chính trị có bằng chứng thì khó thoát.

Sau khi qua giai đoạn điều tra, tra tấn, kết cung ra tòa án, họ trở thành người tù chính thức thì có quy chế cho tù nhân khá rõ ràng. Họ có quy chế riêng về tù binh, về tù chính trị, về tù dân sự. Người tù bị mất quyền công dân, chứ không mất quyền làm người. Trong tù, không bị đánh đập, nhục mạ về nhân phẩm, không bị thù hằn, không bị biệt lập với gia đình. Nhưng đối với tù đặc biệt, như tù ở Côn đảo thì khó có chế độ thăm nuôi thường xuyên và nhiều hạn chế mối quan hệ xã hội. Đối với tù dân sự, thì không có sự hà khắc đặt biệt nào, càng không có chuyện người chết khơi khơi, hoặc chết thình lình trong đồn công an, khi bị “lịch sự” mời đến làm việc, bởi vi phạm nào đó, như không đội mũ bảo hiểm, chọc gái, gây lộn, ăn cắp, trộm chó, hoặc vì một sự kiện xung đột nào đó, v.v. Cái hỗn độn kiểu này ngày ấy hiếm có, dù là thời ấy đang chiến tranh, mà thời nay là hòa bình gần 40 năm.

Anh Hà Vũ,
Anh làm luật sư, chắc anh biết rành về chuyện này, thật đáng phẫn nộ!
Ở xã hội miền Bắc trước 75, tội về chính trị, sai quan điểm hay lập trường thế nào đó, không bị đánh đập dã man như “Đế quốc”, mà chỉ “nhẹ nhàng” đi “cải tạo” lâu dài, hay suốt đời ở xó xỉnh nào đó, bị cô lập không được giao du với ai, “tự do” bươi kiếm cái ăn, trong một xã hội mà thực phẩm thì được phân phối và quản lý chặt chẽ. Hoặc biện pháp cô lập tại chỗ với nhiều hình thái khác nhau, từng bước giảm nguồn lương thực, giảm thiểu dần đến số không, kể cả nước uống, cho đến lúc “tự chết”, chứ không ai mó tay vào. Đối với người tù, xã hội vẫn còn đó, nhưng không chạm được vào tay, cô độc như ở trong một cảnh giới khác. Người ta hãi hùng về hai chữ “cô lập”. Sống mà là đang chết, mà sau cùng chết theo cách khốn cùng của một con vật, chứ không còn là con người, nghiệt ngã thảm thương như chuyện bên Tàu, chắc anh rõ, như chuyện Chủ tịch nước Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ, là điển hình cho hàng vạn, hàng triệu con người. Cách giữ tù mà không cần nhà tù cố định, mà trong một không gian vô định, và thời gian vô định, xã hội và người thân không biết được, kể cả bản thân người tù. Đó được gọi là “nhà tù kín” mà ngày nay còn đang hiện diện nhiều ở Trung Quốc.

Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã từng theo mô hình ấy.

Cách nào tàn độc, đau đớn, tinh vi hơn cách nào? Cách nào là sự thù hận “con người”, cách nào là bảo vệ luật pháp?

Tôi tin là thời kỳ khủng khiếp đó không còn nữa.
Những thế hệ đi trước đã để lại những dấu vết khó phai.
Nhưng ngày nay chúng ta có một chế độ lao tù rõ ràng hơn không, và sinh mạng tù nhân có được bảo vệ bởi luật pháp? Và ai có thể biết những gì xảy ra trong tù? Mọi việc chỉ có Đảng làm, Đảng biết, và Đảng xử lý. Cái ghế của Đảng ngồi có phép thuật, như Tề Thiên Đại Thánh có thể biến thành trăm vạn cái ghế khác mang nhiều khuôn mặt khi cần. Người dân mà còn bị cô lập từng cá nhân đơn lẻ (không cho tụ họp) thì nói chi đến người tù!

- Chức năng người giữ tù

Trong nhà tù, tù nhân được “tự do” trong khuôn khổ được quy định của mỗi loại tù. Chức năng của trại tù và người giữ tù được quy định, có vai trò quan trọng trong cách xử sự.

Người giữ tù, với tư cách là một viên chức, họ phải hành xử theo quy định của luật pháp. Không có vấn đề tư tưởng, tôn giáo, chính kiến, chủ nghĩa, hay các thứ khác dính vào đây. Họ không có trách nhiệm và không có tư cách để giáo dục, dạy dỗ ai cả, về cái gì cả cho tù nhân. Họ không có quyền đánh đập, hành hạ tù nhân, truy bức tư tưởng, triệt hạ nhân cách, khủng bố tâm lý. Họ chỉ có một chức trách là giữ đúng quy chế của trại tù. Nhà tù có thể tạo điều kiện cho tù nhân được thỏa mãn một số nhu cầu tinh thần và vật chất mà không trái với luật pháp. Tùy theo điều kiện khách quan của từng nơi, họ cho phép tù nhân có thể tiến hành những nghi lễ tôn giáo, như xưng tội, cầu nguyện, lạy Phật, đọc kinh… Người giữ tù phi chính trị trong vai trò của mình. Cá nhân người giữ tù có thể có lập trường chính trị, theo đảng phái hay tôn giáo nào đó là chuyện riêng, không liên quan đến chức năng trong công việc mà họ được giao phó. Vì thế, người giữ tù cũng có được sự “tự do” theo nhân cách của mình, không bị o ép phải hành động theo xu hướng nào, ngoài quy chế của trại tù. Dĩ nhiên cũng có tiêu cực vặt vãnh trong những chuyện vặt vãnh đời thường khó tránh khỏi. Đôi khi cũng có sự lạm quyền, hà khắc do cá nhân và tư cách của anh trưởng trại tù nào đó khi chưa bị phát hiện.

Đặc biệt, đối với tù chính trị, người giữ tù thường tôn trọng về mặt tinh thần hơn đối với tù hình sự như du côn, cướp giật, hiếp dâm. Vì dù sao, người tù chính trị, cũng vì việc chung của xã hội, dù khác chính kiến với nhà cầm quyền, vẫn ở hệ giá trị cao hơn. Tù chính trị Cộng sản vẫn có một quy chế rõ ràng, nghĩa là có luật pháp bảo vệ, dù bị “đặt ngoài vòng luật pháp” như Hiến pháp của họ quy định.

Ngày nay, Điều 4 Hiến pháp là cái gốc rễ căn bản có thể xóa nhòa mọi ranh giới.

Chức năng người giữ tù cũng giống chức năng của quân đội. Người thanh niên bước chân vào quân ngũ, có hai điều phải thực hiện: hệ thống kỷ luật của quân đội, và không được phản quốc, tức là trung thành với Tổ quốc, một khái niệm chung không cụ thể, có tính chất tượng trưng và thiêng liêng. Nhân sinh quan là thuộc quyền của mỗi người. Nhưng Điều 4 Hiến pháp là gốc rễ để biến Đảng thành “Thượng Đế”, có thể đặt “ngoài vòng luật pháp” mọi thứ mà Đảng muốn. 

Anh Hà Vũ quý mến,

Anh có tin rằng chế độ lao tù trong xã hội ta đang sống có hà khắc không? Sẽ được cải tổ để tốt hơn không? Tôi tin rằng có, nhưng không biết đến bao giờ! Sẽ do áp lực của quần chúng nhân dân và áp lực quốc tế, và có sự “tự chuyển biến” theo hướng tiến bộ của nhà cầm quyền?
Thời gian là quả thật vô định.
Tôi lo cho anh.
Anh Hà Vũ, anh là người tù thuộc loại nào?
Anh lớn lên trong lòng chế độ, có truyền thống yêu nước từ Ông Cha, và anh đã tiếp nối con đường ấy.
Tôi nghĩ, anh không đứng trong một tổ chức chính trị hay đảng phái nào khác, anh còn là một trí thức trưởng thành trong chế độ này – Tiến sĩ, Luật gia. Anh đấu tranh cho sự tiến bộ xã hội về dân chủ, về luật pháp và nóng lòng với giặc ngoại xâm, với phương thức hòa bình, bất bạo động. Thế rồi anh bị bắt, bị xử tội về sự khác chính kiến, theo cách không sòng phẳng và trở thành người tù. Bản án của anh làm dư luận rộng rãi bất bình, và dành cho anh nhiều chia sẻ, cảm mến và kính phục.
Tôi cho đó là hạnh phúc của người đấu tranh.

Bản án của anh, được tiếp nối những bản án khác, cùng với sự đàn áp liên tục những người biểu tình, chỉ để bày tỏ sự bất bình về hành động xâm lược của Trung Quốc đang chiếm đóng biển đảo và bức hại ngư dân.

Đất nước đang đứng trước tình thế khó khăn bởi sự đe dọa chủ quyền, Nhà nước lại tự mình làm khó khăn thêm bằng những biện pháp không thích đáng, mất lòng dân, gây phẫn nộ, nó đang báo hiệu một tương lai đi xuống, chứ không “đi lên” đâu cả. Dân chúng cũng không chịu nổi như anh, mà đang ráng chịu, cũng đang quằn quại như anh, vì các chữ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc có từ Tuyên ngôn Độc Lập vào mùa Thu năm 1946, mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã long trọng hứa hẹn.

Chừng nào mà Hiến pháp được thay đổi theo hướng dân chủ, tiến bộ hơn, phù hợp hơn, không còn toàn trị, hơi thở của trí tuệ nhân dân được tôn trọng, thì lúc ấy mọi sự sẽ khác đi, quyền sống của tù nhân cũng được minh định rõ ràng hơn. Nhưng điều đó chưa đến, nó đang được thử thách.

Lời bày tỏ thật tình

Tôi biết đã bao người như anh, và đang những người như thế, rất tâm huyết như trong lá thư anh viết, tôi hiểu như một lời tuyệt mệnh, và tôi đang xót xa.

Nhưng có đôi điều tôi suy nghĩ khác, rất chân thành với anh.

Tôi không muốn anh chết, vì không muốn mất đi một người yêu nước, biết đấu tranh cho độc lập, và tiến bộ xã hội.
Tôi muốn anh có cách chấm dứt tuyệt thực.
Không bỏ cuộc, không đầu hàng trong ý chí của mình, và anh cần giữ mạng sống. Hai điều này không mâu thuẫn nhau.

Tôi đã trải qua nhà lao Chí Hòa, Côn Đảo, học tập những người đi trước, cùng đồng đội chịu đựng qua tra tấn, không đầu hàng, nhưng sau đó nâng niu từng giọt thở, tiết kiệm từng chút năng lượng còn lại để duy trì sự sống, với tâm nguyện dành cho cuộc đấu tranh tiếp tục, lâu dài, trừ khi họ chủ động ra tay giết chết, thì chịu!

Nhưng ở đây, cuộc đấu tranh này là có tính chất nội bộ dân tộc, dù hết sức gay go, nhưng chúng ta cũng không thể hành xử theo cách bạo động. Tôi cho rằng anh đang bạo động với bản thân mình. Ông Gandhi, ông Nelson Mandela đấu tranh bất bạo động, có tuyệt thực để bày tỏ, chứ không tuyệt thực đến chết. Chúa Jesus không khuyên tín đồ của mình tự sát. Đức Phật cũng thế. Trong mọi loại đấu tranh, sự hy sinh là không tránh khỏi, nhưng phải đúng lúc. Vì mạng sống của một con người thật đáng quý. Như Ngài Thích Quảng Đức tự thiêu, là một sự cúng dường cao cả, đã làm bật nút đúng thời điểm cho một sự chuyển động đầy ý nghĩa.

Nhưng chúng ta không thể biến bán cầu não trái của ai đó thay đổi nhanh chóng được.

Những người tù Côn Đảo thuộc nằm lòng những câu thơ này:
Thân anh, anh bắc nên cầu
Để mai em bước lên lầu Tự do.
Nhưng hàng hàng lớp lớp đã trải thân ra bắt cầu, cầu vẫn chưa xong mà ngày mai thì vẫn ở tận chân trời. Bao người đã ra đi, đã chết trong giấc mơ đẹp mà đau của mình, đáng trân trọng và thân thương biết bao, nó để lại nỗi hoài cảm u uất trong lòng người sống, không thể không xót xa.

Anh Hà Vũ,

Tinh thần đấu tranh của anh được sự trân quý của nhiều người, anh không có ý định lao vào một cuộc đấu tranh “ăn thua đủ” rất không cân xứng này, phải không? Và cũng không xứng đáng với đối tượng là một anh cai tù cấp nào đó? Nhưng họ đang “ăn thua đủ” với anh, vì sự hãnh tiến quyền lực, nó đơn thuần về sức mạnh vật chất, và họ có dư thứ của cải này. Còn anh thì nặng về bày tỏ, cảnh tỉnh, và mục tiêu là sự cảm hóa. Điều này thì anh đã làm được rất nhiều rồi. Trường hợp anh Chí Đức – người bị khiêng như khiêng một con heo, lại bị giẫm giày vào mặt – để làm nhục tính cách “con người” của anh ấy, nhưng sau cùng, anh không phải là người thua cuộc, mà vẫn là con người đàng hoàng tiếp tục đấu tranh hàng ngày, và cũng vì không có mục đích là thua thắng với ai; nhưng đằng kia, ông Đại úy Thanh không phải là người thắng cuộc, mà là người “tự thua”, thua trắng, thua đậm và thua vĩnh viễn trong đời sống xã hội, thậm chí thua trong gia đình, trong đầu con cháu và cả trong tâm của ông ta nữa. Thái độ thù hận “con người”, thích hủy hoại “nhân phẩm” của ông ta còn là tấm gương mà đồng đội ông ta đang soi vào.

Anh Hà Vũ,

Anh nên tự tuyên bố chấm dứt cuộc tuyệt thực.
Đây thuần túy chỉ là lời đề nghị.
Nếu họ lùi cho một bước, là anh thắng cuộc sao? Là chẳng phải quyền lực và bạo hành đang lên ngôi đó sao?
Anh không nên phung phí ý chí của anh lúc này và ở chỗ này.
Nếu tôi ở phía quyền lực, tôi sẽ lùi cho anh mười bước, anh sẽ là người thua, tôi mới là người thắng.
“Thắng nhân giả hữu lực. Tự thắng giả cường”
Câu chân lý này đang thích hợp cho cả đôi bên.
Anh cần thực hành đức nhẫn nhục của một người tu sĩ lúc này, để sau đó, có thể cùng mọi người tiếp tục dấn bước trong cuộc hành trình dài hơi của dân tộc. Hãy cứ để cho họ lên ngôi và thưởng thức sự đắc thắng.
Thử xem “lòng tin chiến lược” sẽ đặt ở đâu, nếu không đặt trong lòng nhân dân qua từng sự việc cụ thể này?

Tôi trân trọng và quý mến anh.
Kính nhờ chị Dương Hà chuyển bức thư này đến tay anh Cù Huy Hà Vũ nếu có thể.

Hạ Đình Nguyên, một người Sài Gòn không quen biết.

Ngày 8-6-2013
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

11/06/2013

 

Nếu ngày mai anh Cù Huy Hà Vũ chết vì tuyệt thực?


Nguyễn Thế Hùng

Đọc thư anh Hà Vũ đăng trên BVN và thư kêu cứu của vợ anh, chị Dương Hà, kỷ niệm trong tôi lại hiện về: “vài ngày trước khi anh Hà Vũ bị bắt, tôi có dịp ăn cơm tối tại nhà anh chị, sau đó chúng tôi cùng đến thăm anh PT (lúc đó anh HC đi xa, vắng, nên chúng tôi không đến thăm anh ấy)”.

Qua nhiều lần tâm sự tôi được biết, lòng anh Hà Vũ luôn quan tâm suy nghĩ về đất nước; anh ấy cho biết rằng anh ấy rất cô đơn! Vâng, những nhà tư tưởng lớn, các nhà khoa học lớn thường rất cô đơn!
Những người yêu nước nồng nàn như anh Hà Vũ, khi thấy cảnh đất nước yếu hèn; những công dân yêu nước bị tù đày thì lòng sao không đau xót, đạo đức xã hội suy đồi thì sao không cô đơn!


Tôi và anh Hà Vũ quen thân nhau có lẽ do trời xui, đất khiến; bởi lẽ chúng tôi làm việc trong hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau (một bên Luật kinh tế, một bên là Kỹ thuật Xây dựng).
Cả Tôi và anh Vũ đều nhìn nhận như thế.

Chúng tôi quý mến, kính trọng nhau vì cùng chung nỗi niềm yêu nước thương nòi; chúng tôi thấy nước nhà suy yếu, dân tình lầm than, đạo đức xã hội suy đồi lòng đều đau như dao cắt!

Việc làm của anh Hà Vũ, không ngoài việc yêu nước thương nòi!

Nếu ai đó có độ nhạy cảm cao về tâm linh, hiểu biết lẽ huyền vi của tạo hóa, có thể nhận thấy tâm tính, ý chí và nghị lực trong mỗi con người chúng tôi (qua chữ ký và tướng số của từng người).
Mỗi người thể hiện sự ngay thẳng, trung trực; một chữ ký vút lên cao, một chữ ký cắm sâu xuống lòng đất, vững chắc; mỗi bên tạo nên một thế giới quan, vũ trụ quan riêng biệt nhưng hợp nhất.

Hiện giờ anh Hà Vũ đã nhịn ăn đến ngày thứ 15 nhưng vẫn chưa chết; do đó mỗi người chúng ta, nếu cảm thấy rằng mình là con người nhân hậu – văn minh – yêu nước – thương nòi, thì vẫn còn cơ hội để làm một cái gì đó vì anh Hà Vũ, để khỏi phải thốt lên những lời ân hận, hoặc ít nhất bị lương tâm dằn vặt!

Những quan chức có trách nhiệm đối với vận mệnh của anh Hà Vũ có biết mai kia lịch sử đất nước sẽ ghi chép về mình như thế nào không?
Có những người sống coi như đã chết, nhưng có những người chết nhưng lại sống mãi trong lòng dân tộc hay xa hơn nữa là nhân loại! Kẻ sống coi như đã chết tất nhiên khi chết đểlại đủ thứ tiếng mỉa mai, chê cười của hậu thế!
Ôi cái sống, chết sao mà đa đoan thế! Trên cõi đời này, cái được, mất, sự may rủi không ít người bị nhầm lẫn!

Có người nhầm tưởng kiếm được cái chức nào đó trong một chế độ nào đó là vinh, nhưng biết đâu đó là nhục. Lại có ai đó làm việc (nếu thực chất việc đó không tốt) để có nhiều tiền, tưởng đâu đó là may mắn, nhưng biết đâu rằng đó là cái rủi? Trong cuộc trần ai vinh luôn đi liền với nhục!

Để lại nhiều tiền bạc cho con cháu có chắc là cái phúc hay đó cái họa cho gia đình mình? Nếu ai đó hiểu được sự huyền vi của tạo hóa, thì thế nào người ấy cũng thành công, cũng được xã hội trân trọng!

Một đất nước muốn phát triển cũng phải tuân theo quy luật, trong khoa học tự nhiên gọi là định luật, hay như ông cha ta gọi đó là thiên luật!

Những ai mang dòng máu Việt, được hưởng ân huệ từ tổ tiên giống nòi mà lại dửng dưng với đất nước, thờ ơ trước sự tồn vong của dân tộc thì thật là quá vong ân bội nghĩa!

Với một đất nước, để phú cường, có hai tài sản quí báu cần phải đảm bảo đó là sức khỏe của dân tộc và thời gian của mọi con người sống trong xã hội. Với đất nước chúng ta hôm nay, lan tràn thực phẩm độc hại, môi trường ô nhiễm, thì làm sao con em chúng ta có đủ sức khỏe để cạnh tranh với đời! (Bản thân tôi hơn mười năm nay, đã không dám đến các quán để ăn sáng!)

Thời gian học tập và làm việc của tất cả chúng ta hiện bị mất mát quá nhiều!
Con em chúng ta đã mất nhiều thời gian để học những điều vô bổ; thời gian cho công việc trong hầu hết cán bộ công chức và quan chức không có nhiều; thời gian dành cho những cuộc nhậu nhẹt, đấu đá chiếm tỷ trọng quá lớn!

Mặt khác, đất nước lại đội trên đầu hai trái bom hủy diệt dân tộc: một trái bom bùn đỏ Tây Nguyên, và một trái bom khác đang thai nghén là nhà máy điện hạt nhân! Chúng ta phải hiểu rằng xây dựng để phát triển, để đất nước trường tồn; chứ không phải phát triển để rồi bị hủy diệt !

Đất nước chúng ta lại có một bất hạnh lớn, đó là ở gần một nước to lớn, có nền văn hóa kỳ lạ! Luôn nuôi mộng bành trướng, bá quyền, lòng dạ bọn lãnh đạo (vua chúa xưa và nay) tham tàn, hiểm độc; họ có thể dùng bất cứ thủ đoạn đê hèn nào để xâm chiếm nước ta, lợi dụng ta để rồi hủy diệt ta. Chơi với họ, không vạch ra những âm mưu hành động xấu xa của họ cho thế giới hiểu là có tội không những với Tổ quốc mà còn có tội với các dân tộc yêu hòa bình và chuộng công lý. Ông cha ta cũng đã có câu: “Ngưu tầm ngưu mã tầm mã”.

Biết được vị trí vô cùng quan trọng của đất nước ta đến sự ổn định thế giới, nên các cường quốc văn minh chắc chắn sẽ âm thầm giúp đỡ chúng ta; nếu chúng ta có những lãnh đạo sáng suốt rất sẽ nhận ra điều này! Đây chính là sự màu nhiệm của thuyết càn khôn dịch lý! Trong cái rủi có cái may mắn!

Chế độ phản dân chủ, thường làm cho dân trí mù mờ (cấu tạo những môn học có nội dung tuyên truyền, bóp méo sự thật, ca ngợi thể chế, sùng bái cá nhân…), để dễ sai khiến, điều này sẽ làm cho nhiều người không biết đâu là sự thật, đâu là sai trái, đâu chính, đâu tà để đám cầm quyền dễ bề cai trị; nhưng đất nước yếu hèn, lãnh thổ bị xâm chiếm, cũng từ việc làm này mà ra !

Những con em chúng ta học khoa học tự nhiên, mà không được trang bị đầy đủ khoa học xã hội, thì có lẽ ai thuê mình làm cũng được, miễn họ trả nhiều tiền, tạo điều kiện cho mình nghiên cứu, làm việc, giả bộ yêu quý mình; còn những vấn đề xấu xa khác của họ được che đậy khéo léo tinh vi thì không thể nào thấy được.

Độc quyền yêu nước, đánh đập, tù đày những công dân tỏ bày ý kiến trái ngược là phản khoa học, là mắc mưu bọn đại Hán.

Do đó nhà chí sĩ Phan Châu Trinh đã chủ xướng nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí; đây là con đường cứu nước! Có dân trí, dân khí thì lo gì dân không giàu, nước không mạnh; lo gì không có độc lập, tự do? Chúng ta hãy noi gương nước Đức và Nhật.

Do đó, việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc dựa trên một thể chế xã hội khoa học thật sự tiên tiến, nhằm làm tiền đề để đưa đất nước phát triển tự do, dân chủ và hùng cường là mệnh lệnh của trái tim và khối óc của mỗi người dân Việt.

Kế thừa trong mọi ngành khoa học là điều kiện tối cần để có sáng tạo và chạy đua được với thế giới!
Một thể chế khoa học thật sự, có thể tham gia cuộc đua, ví như một chiếc xe được thiết kế có công suất lớn, các chi tiết tốt và đồng bộ, có hệ thống phụ đảm bảo an toàn trong vận hành như: phanh thắng, bình chữa cháy, lốp dự phòng... (cơ chế của các nước tiên tiến đều đảm bảo được các điều kiện này).

Nhìn về quá khứ, ông cha chúng ta đã anh dũng chống được thế lực phương Bắc hùng mạnh nhất thế giới thuở ấy như Nguyên Mông, và thuở ấy không có Liên hiệp quốc, không có sự quan tâm giúp đỡ quốc tế, nhưng ông cha chúng ta đã không những giữ vững giang sơn bờ cõi mà còn mở rộng đất nước; đó là nhờ ông cha ta hiểu được thiên luật! Ngày nay đã có Liên hiệp quốc, các dân tộc trên thế giới quan tâm lẫn nhau, thì vì cớ gì ta nghèo hèn như vậy?

Nếu một chế độ nào đó làm cho đất nước suy yếu, thì đó là tội lỗi; đối ngoại chấp nhận phận tôi đòi là làm mất danh dự đất nước; đối nội tàn ác với người yêu nước là phản bội Tổ quốc, nối giáo cho giặc!

Mong rằng, vì tương lai của Tổ quốc, của con em chúng ta, vì công lao của các bậc tiền nhân dựng và giữ nước, cũng vì là con người trong cộng đồng nhân loại, chúng ta phải có trách nhiệm không phải chỉ cho đất nước ta mà còn phải cho cả loài người; chúng ta phải có tiếng nói, phải có hành động thiết thực không những cho anh Hà Vũ, mà còn cho những công dân Việt Nam khác, cho những ai trên thế giới yêu chuộng hòa bình và công lý!

Mỗi công dân có tiếng nói, hành động ví như một hạt cát, nhưng bãi sa mạc không thể có được nếu thiếu vắng hạt cát!

ĐN, một đêm không ngủ 10 /6/2013
N.T.H.

No comments:

Post a Comment