Saturday, October 25, 2014

Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền

THANH NIÊN

Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 6: Từ thảm sát Gạc Ma đến mộng bá chủ biển Đông



(TNO) Sự kiện Gạc Ma “là cuộc thảm sát do lính Trung Quốc hung hăng gây ra. Trung Quốc không bao giờ có tình nghĩa đồng chí, anh em với Việt Nam gì cả mà họ sẵn sàng tiêu diệt ta vì quyền lợi của họ”, chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm khẳng định.

>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 5: Quyết tử
>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 4: Những cuộc đối đầu căng thẳng

>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 3: An Bang, Thuyền Chài giữa vòng vây

>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 2: Chạm trán

>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền



Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm - Ảnh: Trung Hiếu

Liên quan đến sự kiện Gạc Ma và cuộc đấu tranh bảo vệ Trường Sa của quân ta, Thanh Niên Online có cuộc trao đổi với chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, người trực tiếp phụ trách tác chiến của Quân chủng Hải quân khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đảo Gạc Ma ngày 14.3.1988.

- Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm: Từ rất lâu, Trung Quốc có ý đồ muốn chiếm các đảo ở Trường Sa để làm chủ vùng biển phía Đông. Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập là các đảo nằm ở giữa Trường Sa và giữa biển Đông. Cho nên âm mưu của Trung Quốc chiếm các đảo này là được tính toán từ trước. Các đảo mà Trung Quốc đang chiếm đóng có vị trí “cài da báo” với những đảo do Việt Nam quản lý. 

Việc chiếm giữ các đảo này không những gây sức ép với Việt Nam và Philippines mà còn tạo chỗ đứng chân tại biển Đông ở phía Nam. Khi có lực lượng ở đây, Trung Quốc sẽ khống chế toàn bộ vùng biển từ eo biển Malacca qua Singapore, đi qua Đông Bắc Á, rồi Bắc Mỹ.

Sau năm 1988, khi chiếm xong đảo Gạc Ma, Trung Quốc bắt đầu xây dựng căn cứ trên đảo này. Hiện Trung Quốc đang tăng cường xây dựng ở Gạc Ma, rồi sắp tới là Chữ Thập, Châu Viên để biến ba đảo này thành một cụm đảo chi viện cho nhau như họ từng tuyên bố.

Khi ba đảo này trở thành một cụm thì toàn bộ căn cứ, cơ sở đóng quân ở Trường Sa của Việt Nam sẽ bị uy hiếp. Thậm chí các đảo của Philippines, Malaysia cũng bị đe dọa.

* Ông đã ra Trường Sa bao nhiêu lần?

- Tôi đã có hai lần ra Trường Sa và phần lớn đi hết các đảo ở quần đảo này. Còn trước đó tôi ở Bộ tư lệnh Hải quân ở Hải Phòng, làm tham mưu phó phụ trách tác chiến theo dõi rất sát về tình hình Trường Sa. 


Từ rất lâu, Trung Quốc có ý đồ muốn chiếm các đảo ở Trường Sa để làm chủ vùng biển phía Đông. Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập là các đảo nằm ở giữa Trường Sa và giữa biển Đông. Cho nên âm mưu của Trung Quốc chiếm các đảo này là được tính toán từ trước. Các đảo mà Trung Quốc đang chiếm đóng có vị trí 'cài da báo' với những đảo do Việt Nam quản lý
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm


* Ông có thể kể về cuộc sống của bộ đội, hải quân ở Trường Sa sau 1975 và những năm mà ông phụ trách tác chiến của Bộ tư lệnh Hải quân?

- Năm 1984, ông Giáp Văn Cương thay ông Đoàn Bá Khánh làm tư lệnh Quân chủng Hải quân. 

Khi nhận nhiệm vụ tư lệnh, thượng tướng Giáp Văn Cương đã đi một loạt các đảo ở Trường Sa, sau đó đề xuất với Bộ Quốc phòng về việc tăng thêm quân tại nhiều vị trí ở Trường Sa mà lúc đó ta chưa đóng. Bộ Quốc phòng và Quân chủng Hải quân đồng ý cho thêm quân đóng ở các đảo An Bang, Phan Vinh, Đá Tây…

Cuộc sống của bộ đội ở Trường Sa cuối những năm 70 và đầu 80 của thế kỷ trước rất gian khổ, thiếu thốn trăm bề. Thiếu thốn nhất vẫn là nước ngọt. 

Hồi đó các đảo chưa xây dựng được hầm ngầm, chưa có dự trữ nước ngọt nên chủ yếu dựa vào các tàu tiếp tế. Mà hồi đó rất ít tàu tiếp tế có khả năng đi ra Trường Sa. Bộ đội ở Trường Sa còn thiếu rau xanh, quần áo. Thông tin liên lạc chủ yếu là đánh morse. 

Sau này nhờ sự quan tâm của nhà nước, điều kiện cuộc sống của bộ đội ở Trường Sa dần được cải thiện.

Hi sinh ở Gạc Ma


Trung Quốc tăng cường xây dựng căn cứ trên đảo Gạc Ma - Ảnh: Mai Thanh Hải
* Do có vị trí quan trọng nên Trung Quốc luôn có âm mưu chiếm đóng Trường Sa để độc chiếm biển Đông. Vậy sau năm 1975 và những năm về sau, Trung Quốc có những hành động gì ở Trường Sa?

- Ngày 29.3.1975, khi giải phóng xong Đà Nẵng, đại quân của ta đang tiến về phía Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quan tâm tới các đảo ở quần đảo Trường Sa. Đại tướng đề nghị giao cho Quân chủng Hải quân và Quân khu 5 tổ chức lực lượng giải phóng Trường Sa.

Đầu tháng 4.1975, ta đã điều lực lượng vào Đà Nẵng. Lúc đó ông Hoàng Hữu Thái, Phó tư lệnh, tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân, được cử vào Đà Nẵng để tổ chức lực lượng đi ra Trường Sa. 

Sau này, một số anh em trực tiếp tham gia chiến dịch giải phóng Trường Sa cho biết khi ta giải phóng đảo Song Tử Tây, rồi Sơn Ca, đêm hôm sau có một số tàu không treo cờ lai vãng Song Tử Tây. Ban ngày, các tàu này cách đảo 2 - 3 hải lý nhưng khi nhìn thấy cờ Việt Nam treo ở đó rồi nên họ bỏ đi. 

Tôi được biết một số lãnh đạo Trung Quốc từng phê phán lực lượng hải quân nước này nhát gan. Nếu hải quân Trung Quốc nhanh tay thì lúc đó các đảo ở Trường Sa có lẽ đã thuộc về Trung Quốc. Chính báo chí Trung Quốc chê hải quân nước này nhát gan để đến giờ họ hầu như “trắng tay” ở Trường Sa.

Cuối năm 1986 sang 1987, Trung Quốc cho quân trinh sát tất cả các bãi đá ngầm ở Trường Sa. Đầu tiên, họ dùng tàu cá sau đó là tàu quân sự nhưng không treo cờ hải quân để trinh sát. Ban đêm, họ thả người xuống các đảo khảo sát, rồi đặt bia chủ quyền lên một số đảo. Ban ngày, bộ đội ta dùng thuyền cao su đi kiểm tra, phát hiện nhiều bia chủ quyền do Trung Quốc thả ở một số đảo. 

Tất cả những thông tin này đều được báo về Bộ Tư lệnh Hải quân. Từ đó, Bộ Tư lệnh Hải quân giao cho cơ quan chúng tôi vạch ra một kế hoạch tác chiến bảo vệ Trường Sa. Kế hoạch đó được đích thân tư lệnh Giáp Văn Cương báo cáo cho Trung ương vào tháng 8.1987. 

Tháng 9.1987, kế hoạch được triển khai. Chúng ta tăng cường quân ở các đảo mà có khả năng Trung Quốc sẽ đánh chiếm. Tình hình biển Đông cuối 1987 đầu 1988 rất căng thẳng. Tư lệnh Giáp Văn Cương đã điều sở chỉ huy các cơ quan hải quân từ Hải Phòng vào Cam Ranh (Khánh Hòa).


Ngày đêm bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc - Ảnh: Trung Hiếu

Thời gian này, tướng Cương làm Tư lệnh Quân chủng Hải quân kiêm Tư lệnh vùng 4 hải quân. Trước đó, Phó tư lệnh Quân chủng Hải quân Đoàn Bá Khánh được cử vào Cam Ranh làm chỉ huy trưởng vùng 4 hải quân.

Sau khi kế hoạch bảo vệ Trường Sa được thông qua, tháng 10.1987, chính tôi đã viết điện cho tư lệnh Giáp Văn Cương với nội dung vùng 4 chuẩn bị ngay lực lượng triển khai đóng các điểm như Chữ Thập, Đá Tây, Châu Viên, Tiên Lữ. Một đảo sẽ có 3 - 4 tàu để ra đóng giữ. 

Tuy nhiên, lúc đó, tàu của lực lượng hải quân mỏng, sóng gió to nên phần lớn tàu không đi được. Cuối tháng 12.1987, vùng 4 hải quân mới cho quân ra đóng ở Đá Tây. 

Tôi còn nhớ đại tá Nguyễn Văn Thư, tham mưu trưởng vùng 4 hải quân, đánh điện về với nội dung: “Báo cáo ông chủ, chúng tôi đã triển khai ổn định cái chợ (từ lóng để chỉ các đảo ở Trường Sa mà hải quân dùng để bảo đảm bí mật thông tin - PV). Mọi việc đều tốt đẹp”.

Nghe báo cáo xong, tướng Cương đôn đốc phải đóng quân ở Chữ Thập nhưng tàu ra 4 chiếc thì có 3 chiếc bị hư. Trong khi đó, Trung Quốc đã cho quân ra đóng ở Chữ Thập vào tháng 1.1988, ở Châu Viên vào tháng 2.1988. Khi mình đưa lực lượng ra đóng ở Chữ Thập, Trung Quốc cho tàu ra cản không cho mình vào. Ta và Trung Quốc quần nhau như vậy khoảng vài ngày. Tình hình ở Châu Viên tương tự.

Ở Gạc Ma, đêm 13.3.1988, mình cho mấy chục anh em công binh lên ở một góc đảo, phía bên kia Trung Quốc cũng đổ quân lên. Rạng sáng, Trung Quốc thấy cờ Việt Nam cắm ở trên đảo đã cho người tới nhổ cờ. Lúc này hai bên xảy ra đụng độ. Quân Trung Quốc dùng dao găm đâm người giữ cờ của ta là thiếu úy Trần Văn Phương và chiến sĩ Nguyễn Văn Lanh. Hai anh đã phản kháng lại. Ngay lập lức lính Trung Quốc bắn súng tiểu liên càn quét khiến các chiến sĩ của ta hi sinh hết. Đó là cuộc thảm sát vì ta chưa hề bắn một viên đạn nào.

Sau đó tàu hộ vệ của Trung Quốc đậu cách hai tàu vận tải 604, 605 của Việt Nam, dùng pháo bắn chìm cả hai tàu, khiến 64 chiến sĩ của ta hi sinh. Sau này khi quan hệ hai nước bình thường trở lại, ta đề nghị trục hai chiếc tàu đó lên nhưng Trung Quốc không cho.

Tôi không xem đây là trận hải chiến. Hải chiến là phải có bắn nhau, phải có đọ pháo. Còn ở đây trong khi Trung Quốc trang bị nhiều vũ khí, tàu chiến hiện đại còn ta không hề có một tàu chiến nào mà chỉ có tàu vận tải. Đó là cuộc thảm sát do lính Trung Quốc hung hăng gây ra. Trung Quốc không bao giờ có tình nghĩa đồng chí, anh em với Việt Nam gì cả mà họ sẵn sàng tiêu diệt ta vì quyền lợi của họ thôi.

Việt Nam phản đối, Trung Quốc cứ xây

* Sau sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc có quậy phá gì ở Trường Sa không?

- Sau khi chiếm được Gạc Ma, Trung Quốc cho xây dựng nhà cửa trên đảo. Chính phủ ta gửi công hàm lên án nhưng họ vẫn cứ làm. Nhiều lần Trung Quốc cho tàu cá xuống, vào sát các đảo của mình 1 - 2 hải lý khiêu khích mình. Đối sách của ta sau năm 1988 vừa lên án Trung Quốc nhưng cũng tránh đụng độ dẫn đến tổn thất không cần thiết.

Xin nhắc thêm về trận Gạc Ma. Sau khi xảy ra vụ thảm sát, ta có hai tàu chiến HQ 09 và HQ 11, trên mỗi tàu có bốn pháo 76 li, có thể bắn xa được 10 km. Đây là hai tàu chiến duy nhất của Việt Nam lúc này có thể đi ra được Trường Sa, lại đang đóng ở vùng Tư Chính, Ba Kè. Tướng Cương lệnh hai chiếc này đi lên Gạc Ma. Anh em tác chiến viết và phát lệnh ra nhưng trong lòng rất lo lắng vì lực lượng lúc này quá chênh lệch. 

Tuy nhiên, khi tàu đi được khoảng 1 giờ, tướng Cương ra lệnh hủy việc điều hai tàu ra vùng Gạc Ma quay về vị trí cũ. Cùng lúc đó, tướng Cương ra lệnh viết điện gửi Bộ Tổng tham mưu xin cho máy bay Su xuất kích từ sân bay Cam Ranh ra Gạc Ma nhưng Bộ Tổng tham mưu không trả lời đồng ý cho máy bay ra hay không. 

Bản thân tôi lúc này nghĩ đó là mẹo của tư lệnh trước diễn biến đang căng thẳng ở Gạc Ma. Sau này khi được hỏi tướng Cương cũng thừa nhận điều này. Thực ra lúc đó lực lượng ta quá mỏng so với đối phương.

Cảm ơn ông!

(Còn tiếp)

Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm từng làm Phó tham mưu trưởng Hạm đội 171, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 61, Tham mưu phó phụ trách tác chiến của Quân chủng Hải quân, nguyên Giám đốc Học viện Hải quân Việt Nam. Hiện ông là Chủ tịch Hội Khoa học - Kỹ thuật và Kinh tế biển TP.HCM.

Trung Hiếu

>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 5: Mùa xuân nhớ con anh hùng
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 4: Cuộc trở về của Nguyễn Văn Lanh
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 3: 1.000 ngày bị địch bắt
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 2: Anh hùng đất Việt
>> 25 năm hải chiến Trường Sa
>> Hải chiến Hoàng Sa 1974: Sống chết gạt bỏ sang một bên
>> Hải chiến Hoàng Sa 1974: Căm phẫn vì lẽ cạn tình
>> Hải chiến Hoàng Sa 1974: Vác bụng bầu chạy tìm xác chồng
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 7: Mùa xuân tủi hận
>> Hải chiến Hoàng Sa 1.1974: Trận chiến không chỉ 30 phút
>> Hải chiến Hoàng Sa qua hồi ức một cựu quân nhân (kỳ 6)
>> Hải chiến Hoàng Sa qua hồi ức một cựu quân nhân (kỳ 5)
>> Tài liệu Trung Quốc về Hải chiến Hoàng Sa: Tưởng Giới Thạch không hợp tác với đại lục?
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 4: Nổ súng chống giặc
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 3: Tương quan lực lượng
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 2: Hành quân giữ đảo
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại


Bài báo 25 năm trước

Tháng 3.1988, Báo Thanh Niên (khi ấy còn là tuần tin) đã có nhiều thông tin, bài viết vạch rõ mưu đồ bá quyền của Trung Quốc. Nhân kỷ niệm cuộc hải chiến Trường Sa, Thanh Niên xin đăng lại những bài báo vạch rõ dã tâm của kẻ xâm lược cách đây 25 năm. 

Điểm dư luận phương tây: 

Trung Quốc là kẻ tội phạm trong vấn đề Trường Sa

Xét về nguồn gốc lịch sử và căn cứ vào Công pháp quốc tế, Việt Nam có đầy đủ các yếu tố căn bản để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dư luận rộng rãi trên thế giới hiểu rõ điều đó và đã lên tiếng xác nhận hai quần đảo này là của Việt Nam. 

Khẩu đội DKZ đảo Sinh Tồn Đông quần đảo Trường Sa ra vị trí sẵn sàng chiến đấu - Ảnh: Quốc Vi 

Từ Pháp - nước mà trước kia từng chiếm và đô hộ Việt Nam suốt một thế kỷ - tờ báo khuynh hữu Thế giới (3.3.88) đã viết: "Kể từ thế kỷ 17, Việt Nam đã có chân về kinh tế cũng như chính trị trên các đảo này, và bằng chứng đưa ra là chính quyền thuộc địa Pháp đã sáp nhập vào Đông Dương cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa". 

Thật không có gì khôi hài, ngang ngược và xảo trá cho bằng những lý lẽ do Bắc Kinh đưa ra về vấn đề Trường Sa. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã hai lần lớn tiếng nói rằng Trung Quốc chỉ tiến hành "các hoạt động khảo sát bình thường trên vùng biển thuộc lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc" (?). Có hai điều cần chú ý. "Khảo sát bình thường" với hàng lô lốc tàu chiến và binh lính đổ bộ ư? "Lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc" ở đây lại là vùng quần đảo Trường Sa sao? Với giọng điệu của kẻ vừa ăn cướp, vừa la làng, họ cho tàu chiến bắn cháy 3 tàu vận tải của Việt Nam rồi lại lu loa rằng Việt Nam đã tiến công họ. Ngày 16.3, hãng tin Pháp AFP đã phát bài bình luận khẳng định Việt Nam là người vô tội, còn Trung Quốc là kẻ tội phạm. 

Hãng tin này viết: "Hành động của Trung Quốc rất vụng về, vì đã lợi dụng lễ tang (của ông Phạm Hùng) để thọc dao găm vào lưng người Việt Nam". Báo Thụy Điển Xvenxca Đac-blađet (17.3) cũng viết rằng: "Đa số các nhà bình luận đều nhất trí nhận định rằng chính Trung Quốc đã khiêu khích để gây ra các vụ xung đột trong những ngày vừa qua ở quần đảo Trường Sa". Và còn nhấn mạnh thêm: "Trung Quốc đã cố ý khích động sự phản ứng quyết liệt của Việt Nam".

Về sâu xa và toàn cục, vấn đề Trường Sa và Hoàng Sa nằm trong chiến lược bành trướng bá quyền của giới lãnh đạo Trung Quốc mang nặng tư tưởng Đại Hán phản động. Dư luận thế giới vẫn nhớ rằng Bắc Kinh đã từng đưa vào giảng dạy tại các trường phổ thông những tấm bản đồ mà lãnh thổ Trung Quốc được khoanh gồm cả Việt Nam, Lào, Campuchia, Mông Cổ, Triều Tiên, Malaysia và Indonesia. Trong mấy ngày gần đây, tờ Thời báo Ấn Độ đã liên tiếp đăng tin, bài vạch trần tham vọng của Trung Quốc ở biển Đông và tố cáo ý đồ mở rộng vùng lãnh hải của họ ra tới 90% diện tích của vùng biển này. Ngay cả tờ báo Mỹ Người hướng dẫn khoa học Thiên Chúa giáo (17.3) cũng nhận xét: "Cuộc xung đột gần đây giữa Trung Quốc và Việt Nam ở biển Hoa Nam đối với quần đảo Trường Sa làm rõ những tham vọng hải quân ngày càng lớn của Bắc Kinh trong vùng biển chiến lược quan trọng này".

Ý đồ lâu dài của Bắc Kinh đối với biển Đông càng lộ rõ hơn khi từ tháng 7.1987, đảo Hải Nam - vùng đất Trung Quốc nằm gần hai quần đảo của Việt Nam nhất - đã được nâng lên thành một tỉnh của Trung Quốc với diện tích bao gồm cả hai quần đảo này (!). Ngày 18.3.1988, phóng viên của đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) vừa đi thăm Hải Nam về viết bài cho biết hoạt động hải và không quân trên đảo này đang trở nên nhộn nhịp hơn. Đây là một căn cứ tàu ngầm của hạm đội Nam Hải. Các nhà phân tích cho rằng các tàu chiến Trung Quốc đang gây hấn ở Trường Sa đã xuất phát từ Hải Nam.

Theo nhiều nhà bình luận phương Tây, một trong những mục đích trước mắt của Bắc Kinh khi gây căng thẳng ở Trường Sa là tăng thêm sức ép với Việt Nam nhằm áp đặt một giải pháp có lợi cho họ trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Mặt khác, Trung Quốc có thể còn muốn tạo một hoàn cảnh bất lợi cho Việt Nam sau khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài. Quả thật, nếu có ấn tượng là tình hình bất an và đường biển bị kiểm soát, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ rất dễ ngán dội và e dè. Sự lo ngại này hoàn toàn có cơ sở vì trước nay Trung Quốc vẫn thường xuyên tìm mọi thủ đoạn để phá hoại nền kinh tế Việt Nam từ trong nước đến trên thị trường quốc tế. Nói tóm lại Bắc Kinh muốn dùng một mũi tên bắn chết nhiều con chim!

Đài BBC (London 21.3.1988) bình luận rằng: "Việc hải quân Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, cũng như quyết tâm của họ muốn duy trì sự có mặt thường xuyên về quân sự tại quần đảo Trường Sa này không những chỉ làm cho Việt Nam, mà còn làm nhiều quốc gia khác thuộc hiệp hội ASEAN như Indonesia, Malaysia và Philippines phải lo ngại... Nhưng, dù cho Trung Quốc quả có đạt được lợi điểm quân sự nào đi nữa trong việc có quân đội hiện diện thường xuyên tại vùng Trường Sa, thì việc này xem ra cũng sẽ không đủ để bù lại những thiệt hại to lớn về mặt ngoại giao trong các mối quan hệ của Trung Quốc đối với các nước trong vùng".

Bài báo đăng trên trang 4 Tuần tin Thanh Niên ngày 28.3.1988 - Ảnh: Độc Lập (chụp lại)

Với thiện chí và lòng yêu chuộng hòa bình, phía Việt Nam đã nhiều lần đề nghị Trung Quốc tham gia đàm phán để giải quyết các bất đồng giữa hai nước có liên quan đến Trường Sa, cũng như các vấn đề tranh chấp về biên giới và Hoàng Sa. Chủ trương này của Việt Nam đã nhận được sự đồng tình của dư luận rộng rãi trên thế giới - ngoại trừ Trung Quốc! Trong bài tuyên bố ngày 1.3 tại Cairô (Ai Cập), Tổ chức đoàn kết nhân dân Á-Phi (OSPAA) khẳng định: "Cũng như mọi dân tộc khác, việc bảo vệ tổ quốc và sự toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng của nhân dân Việt Nam và do đó chúng tôi đòi các tàu chiến, các LLVT của Trung Quốc phải rút ngay khỏi các đảo trên".

Phạm Hồng Phước
(Tuần tin Thanh Niên 28.3-4.4.1988)

No comments:

Post a Comment