Trần Trung Đạo (Danlambao) - Theo
kết quả thăm dò của công ty tư vấn Reputation Institute được công bố
vào tháng Chính năm 2011, Nelson Mandela được chọn là lãnh tụ được yêu
mến nhất, kính trọng nhất, thán phục nhất và tin tưởng nhất thế giới.
Tổng thống Mỹ Barack Obama đứng hạng thứ 14, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan
Singh đứng hạng thứ 27, Thủ tướng Anh David Cameron đứng hạng thứ 34.
Nhân
loại yêu chuộng tự do, dân chủ và hòa bình kính phục Nelson Mandela
không phải chỉ vì ông yêu nước, yêu tự do, can đảm ở tù suốt 27 năm dài
lao động khổ sai nhưng quan trọng hơn ông không dùng sự khổ đau chịu
đựng của riêng mình làm thước đo cho chiều dài tương lai của đất nước
Nam Phi và không đặt đôi gánh nặng quá khứ hận thù lên trên đôi vai của
các thế hệ Nam Phi mai sau. Thay vào đó, Nelson Mandela đã dùng đức tính
bao dung, kiên nhẫn, khôn ngoan, biết nhìn ra thấy rộng để vực dậy một
đất nước bi phân hóa bởi màu da, chủng tộc, xã hội giáo dục, kinh tế
chính trị và cả văn hóa lịch sử kéo dài hơn 300 năm từ thời nô lệ, thuộc
địa cho đến thời kỳ Nam Phi độc lập.
Con người cũng như đất nước, giá trị được thẩm định không phải ở sự chịu
đựng nhưng ở chỗ biết vượt qua. Một con người bình thường phải vượt qua
những hoàn cảnh khắc nghiệt để tiến thân, một dân tộc chỉ có thể đuổi
kịp đà tiến của nhân loại nếu dân tộc đó vượt qua được những bất hạnh
của chính mình và vận động được sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Một câu
nói nổi tiếng của Nelson Mandela về hòa giải “Hòa giải thật sự không đơn
giản chỉ là việc quên đi quá khứ”. Nelson Mandela được kính trọng không
phải vì ông quên đi quá khứ nhưng nhờ ông đã sống rất trọn vẹn trong
quá khứ, đã chiêm nghiệm và chuyển hóa những hào quang và chịu đựng,
thành công và thất bại, hy vọng và tuyệt vọng của quá khứ thành nhựa
nguyên, nhựa luyện cho những hàng cây xanh tốt tươi và hy vọng của tương
lai Cộng Hòa Nam Phi.
Hãy tưởng tượng, Nelson Mandela, người bị tù hơn 27 năm và đã có thời
gian chọn lựa phương pháp đấu tranh bằng võ lực, không chủ trương hòa
giải mà nhất định trả thù cho bằng được thiểu số da trắng một thời đã áp
đặt những chính sách bất công, phân biệt chủng tộc lên trên số phận của
đa số người da đen rồi nước Cộng hòa Nam Phi ngày nay liệu có thể là
quốc gia ổn định và phát triển hay không?
Chắc chắn là không.
Hãy tưởng tượng, công việc đầu tiên của tổng thống Nelson Mandela không
phải là việc thành lập Ủy Ban Hòa Giải và Sự Thật mà là lập một danh
sách mấy trăm ngàn viên chức chính quyền Nam Phi đã có liên hệ ít nhiều
đến việc đàn áp các phong trào chống phân biệt chủng tộc để rồi sau đó
tống giam họ trong các trại tù tận vùng núi rừng KwaZulu-Natal xa xôi
hiểm trở, bắt thiểu số da trắng phải giao nộp nhà cửa, tài sản, đày sang
các vùng kinh tế mới ở miền Northern Cape hoang vu để trả thù cho những
cực hình đày đọa mà dân da đen đã từng chịu đựng dưới ách phân biệt
chủng tộc của chính quyền da trắng Nam Phi thì liệu hòa giải dân tộc có
thật sự đến cho quốc gia này hay không?
Chắc chắn là không.
Rất nhiều tác phẩm viết về Nelson Mandela và một số tác phẩm khác trích
từ các cuộc phỏng vấn ông, nhưng Bước đường dài đến tự do (Long walk to
freedom) là tác phẩm cho chính ông chấp bút từ những năm 1970 khi còn bị
tù ở đảo Robben, ngoài Cape Town, Nam Phi. Phần lớn các chi tiết trong
bài viết này cũng được trích dẫn từ hồi ký dày hơn sáu trăm trang Bước
đường dài đến tự do của Nelson Mandela.
Nelson Mandela ra đời ngày 18 tháng 7 năm 1918 tại Mvezo, một ngôi làng
nhỏ bên bờ sông Mbashe thuộc quận Umtata, thủ phủ của Transkei, một
trong những khu vực lớn nhất của Nam Phi. Ông được đặt tên là
Rolihlahla. Theo ngôn ngữ Xhosa, Rolihlahla có nghĩa “kéo một cành cây
xuống” nhưng chính xác hơn có nghĩa là “kẻ gây rối”. Cha của ông, Gadla
Henry Mphakanyiswa, cai quản khu vực Mvezo và cũng là một cố vấn của vua
bộ lạc Thembu. Mandela kế thừa không những cá tính mà cả vóc dáng cao
và thẳng của cha ông ta. Cha của Mandela có bốn vợ, và bà Nosekeni
Fanny, mẹ của Mandela là vợ thứ ba. Theo cách gọi trong gia đình, vợ thứ
nhất được gọi là Vợ Cả, Vợ Phía Tay Phải (mẹ của Mandela), Vợ Phía Tay
Trái, và Vợ Chăm Sóc Gia Đình. Mandela là con lớn của mẹ ông nhưng lại
là con trai nhỏ nhất trong số bốn anh em cùng cha khác mẹ.
Khi còn nhỏ Mandela chịu phép rửa tội theo đạo Tin Lành phái Methodist
Church. Khi đi học, cô giáo Mdinggane thêm tên Nelson vào tên gia đình
đặt. Từ đó, ông được gọi là Nelson Rolihlahla Dalibhunga Mandela. Năm
Mandela lên 9 tuổi, cha ông qua đời vì bịnh phổi. Nelson Mandela được
Jongintaba Dalindyebo, người kế tục chức vụ của cha ông, nhận làm con
nuôi. Sau lễ cắt bao quy đầu vào năm ông 16 tuổi, Nelson Mandela được
đưa vào trường trung học nội trú Clarkebury.
Năm 1937 khi vào tuổi 19, Nelson Mandela theo học đại học Healdtown,
Fort Beaufort. Giống như Clarkebury, Healdtown là một trường đạo Tin
Lành thuộc phái Methodist Church và là trường đại học nội trú duy nhất
dành cho người da đen. Sinh viên da đen ưu tú từ khắp Nam Phi theo học
tại đây. Một biến cố tinh thần đã xảy ra cho Nelson Mandela vào năm cuối
tại Healdtown là buổi viếng thăm trường của nhà thơ lớn Krune Mqhayi,
người dân tộc Xhosa. Lần đầu tiên trong đời Nelson Mandela xúc động lắng
nghe một nhà thơ lên tiếng phê bình chính sách phân biệt chủng tộc của
chính quyền da trắng một cách công khai với sự hiện diện của viện trưởng
và toàn ban giảng huấn trường, rất đông trong số họ là da trắng.
Năm 1960, Nelson Mandela theo học tại đại học University College of Fort
Hare. Đây là trường đại học nội trú da đen lớn nhất ở Nam Phi. Mandela
hy vọng sẽ tốt nghiệp Cử Nhân tại trường này. Ông được bầu vào Hội Đồng
Sinh Viên và tức khắc trở thành một lãnh tụ sinh viên tranh đấu cho các
quyền lợi sinh viên. Trong một lần xung đột với ban lãnh đạo trường về
tiêu chuẩn thực phẩm dành cho sinh viên, Nelson Mandela từ chức khỏi hội
đồng sinh viên. Viện trưởng viện đại học tức giận trục xuất ông khỏi
trường cho đến cuối niên khóa.
Mandela trở lại nhà nhưng chỉ để biết tin cha nuôi đang chuẩn bị cưới vợ
cho mình. Mandela không muốn và cùng người anh nuôi bỏ trốn sang
Johannesburg. Tại đây, Mandela tiếp tục học hàm thụ các lớp còn lại của
hệ cử nhân và chính thức tốt nghiệp tại Fort Hare vào năm 1942. Năm
1943, Nelson Mandela theo học cử nhân luật tại trường đại học
Witwatersrand với ý định trở thành một luật sư.
Chàng thanh niên Nelson Mandela là một người đàn ông cứng rắn nhưng cũng
rất đa cảm. Mandela yêu nhiều người. Trong thời gian trú trại khu
Alexandra thuộc thành phố Johannesburg, Mandela gặp Ellen Nkabinde, cô
bạn luôn có nụ cười tươi, làm nghề dạy học mà Mandela quen biết khi cả
hai còn ở Healdtown. Họ yêu nhau. Khu Alexandra đông đúc và chật hẹp,
cặp tình nhân đang yêu không biết đi đâu ngoài việc ngồi ngắm những vì
sao trên nền trời vào ban đêm. Dù sao, Ellen mang đến cho Mandela tình
yêu, sự ủng hộ, niềm tin và hy vọng trong lúc anh ta đang lạc lõng giữa
thành phố Alexandra còn xa lạ. Rất tiếc chỉ vài tháng sau Ellen rời
thành phố mang theo mối tình đầu của Mandela.
Sau khi Ellen đi, Mandela lại yêu một người con gái khác. Nàng tên là
Didi, xinh nhất trong năm người con gái của gia đình Xhosa mà Mandela
đang trọ. Cuộc tình rồi cũng không đi đến đâu vì Didi không thật sự để
mắt xanh đến anh chàng Mandela đa cảm đang trọ trong nhà mình. Nhưng lần
thứ ba thì khác. Trái tim Mandela hướng về phía người con gái trẻ đẹp
đang theo học nghề y tá tại Johannesburg tên là Evelyn Mase. Cha mẹ
Evelyn chết sớm và cô sống với người anh. Vài tháng sau khi yêu nhau,
Mandela hỏi cưới. Evelyn là vợ đầu của Nelson Mandela cho đến năm 1958.
Nelson Mandela bắt đầu tham gia các hoạt động của tổ chức Nghị Hội Toàn
Quốc Nam Phi (African National Congress) gọi tắt là ANC vào năm 1942 và
cuộc đời hoạt động của ông từ đó được chính trị hóa. Như ông ta giải
thích trong Bước đường dài đến tự do: “Thật khó để xác định thời điểm
nào tôi bị chính trị hóa khi tôi biết mình đã dành cả cuộc đời trong
cuộc đấu tranh giải phóng. Làm một người Phi trong xã hội Nam Phi có
nghĩa là bạn được chính trị hóa từ lúc mới ra đời, dù bạn có thừa nhận
điều đó hay không. Một hài nhi ra đời trong bịnh viên chỉ dành cho da
đen. Đưa về nhà trên xe bus chỉ dành cho da đen. Nếu may mắn được đi học
cũng chỉ học trường dành cho da đen. Khi cô hay cậu đó lớn lên cũng chỉ
làm những công việc người da đen phải làm và mướn một căn nhà để ở cũng
chỉ được ở trong khu da đen”.
Nhắc lại, ANC được thành lập vào ngày 8 tháng Giêng năm 1912 tại
Bloemfontein để đấu tranh cho quyền của người da đen Nam Phi do nhà biên
khảo John Dube và nhà thơ Sol Plaatje sáng lập. Chủ tịch đầu tiên của
tổ chức là John Dube. Trong suốt hơn 70 năm tranh đấu, ANC đã trở thành
đảng chính trị chiếm đa số trong cuộc bầu cử năm 1994 và trong cuộc bầu
cử năm 2009, ANC chiếm đến gần 66 phần trăm trong tổng số cử tri đi bầu.
Nhiều người ảnh hưởng đến quan điểm chính trị của Nelson Mandela đối
với tổ chức ANC nhưng như chính Mandela thừa nhận, ảnh hưởng nhất phải
là Walter Sisulu vì đức tính cương quyết, có lý có tình, thực tế và tận
tụy của ông ta. Walter tin tưởng ANC là phương tiện cần thiết để thay
đổi Nam Phi, là nơi gìn giữ của khát vọng của tầng lớp da đen bị trị tại
Nam Phi. Mandela cũng tin tưởng sâu xa điều đó.
Sau khi gia nhập, Mandela trở thành một thành viên tích cực của phong
trào chống phân biệt chủng tộc tại Nam Phi. Năm 1943, Nelson Mandela là
một trong những thành viên sáng lập của Liên Đoàn Thanh Niên ANC nhằm
đưa cuộc đấu tranh vào quần chúng, tổng hợp sức mạnh của giới nông dân ở
nông thôn và tầng lớp công nhân tại các thành phố. Nelson Mandela cho
rằng các hình thức thư thỉnh nguyện, cầu xin giới lãnh đạo da trắng
không phải là hình thức đấu tranh thích hợp nhưng phải đánh trực tiếp
vào quyền lợi của chúng qua các hình thức tẩy chay, đình công bãi thị,
bất hợp tác với giới cầm quyền. Mặc dù ban đầu gặp trở lực từ các thế hệ
lãnh đạo già, các hoạt động của Liên Đoàn Thanh Niên ANC dần dần đã
được trung ương ANC chấp nhận. Vai trò lãnh đạo của Nelson Mandela được
chính thức hóa qua các hoạt động cương quyết của ông. Năm 1947, Mandela
được bầu vào ban chấp hành ANC vùng Transvaal. Người lãnh đạo trực tiếp
của ông là C.S. Ramohane, một người yêu nước và kế hoạch xuất sắc. Bản
thân Ramohane không có cảm tình với Cộng Sản nhưng làm việc với họ vì
ông cho rằng ông ta nên đón nhận sự ủng hộ từ mọi phía. Mandela cũng là
tác giả của đề án Mandela làm tiêu chuẩn hoạt động cho cả tổ chức ANC
trong đó đặt nặng vai trò chỉ đạo từ trung ương khi nhà cầm quyền da
trắng đặt ANC ra ngoài vòng pháp luật.
Chiến Dịch Thách Thức Những Luật Bất Công (Defiance Campaign of Unjust
Laws) là chiến dịch có quy mô lớn của ANC đòi hủy bỏ sáu đạo luật bất
công trước ngày 29 tháng Hai năm 1952 và nếu không ANC sẽ có những hoạt
động ngoài hiến pháp chống chính phủ da trắng. Dĩ nhiên, chính phủ da
trắng không nhượng bộ mà còn đàn áp quyết liệt. Ngày 6 tháng Tư năm
1952, hàng loạt cuộc đình công đã được thực hiện tại các thành phố lớn
như Johannesburg, Pretoria, Port Alizabeth, Durban và Cape Town. Ngày 30
tháng Bảy năm 1952, Nelson Madela bị bắt cùng với hai mươi lãnh đạo ANC
khác. Nelson Mandela bị kết án chín tháng tù ở nhưng sau đó được chuyển
thành hai năm tù treo.
Năm 1952 cũng là năm có nhiều thay đổi trong nội bộ ANC. Albert Luthuli,
một lãnh tụ có khuynh hướng đẫy mạnh các hoạt động của ANC được bầu vào
chủ tịch. Mandela, trong cương vị chủ tịch khu Transvaal, là một trong
bốn phụ tá của của Albert Luthuli. Nelson Mandela tiếp tục cuốn hút vào
các hoạt động cho ANC cho đến ngày tháng 12 năm 1956, Nelson Mandela bị
bắt lần nữa. Lần này bị truy tố với một tội nặng hơn nhiều: mưu phản.
Nelson Mandela đóng tiền tại ngoại hầu tra. Phiên tòa mưu phản kéo dài
hai năm đã làm Nelson Mandela kiệt quệ về mọi mặt, tình cảm gia đình tan
nát và điều kiện tài chánh suy sụp. Cũng trong thời gian khó khăn này,
sự khác biệt về cách sống, lý tưởng đã làm hai vợ chồng Mandela và
Evelyn vốn khác biệt đã khác biệt sâu sắc hơn. Cuối cùng cả hai đã đồng ý
chia tay nhau.
Một lần trên đường từ tòa về qua một ngã tư đường, Nelson Mandela chợt
lưu ý một cô gái đang đứng chờ xe bus. Nét đẹp của nàng cuốn hút Mandela
nhưng ông ta biết khó mà có dịp gặp lại nàng. Như mối duyên tiền định,
một hôm, khi đang ngồi làm việc trong văn phòng luật sư vừa mới lo tái
trang bị, Mandela gặp lại cô lần nữa. Cô gái tên là Nomzamo Winifred
Madikizela, và thường được gọi tắt là Winnie. Từ đó, họ gặp nhau bất cứ
khi nào có thể. Họ ăn trưa với nhau và cùng nhau đi dạo trên cánh đồng
cỏ xanh giống như cánh đồng cỏ ở quê hương Transkei. Mandela chia sẻ với
Winnie những hy vọng và khó khăn. Như Mandela thuật trong hồi ký “Tôi
không hứa hẹn với nàng vàng bạc hay kim cương, tôi sẽ không bao giờ có
khả năng tặng nàng những món quà như thế”. Winnie hiểu và chấp nhận mọi
khó khăn. Vì Mandela vẫn còn trong thời gian bị truy tố, lễ cưới phải
được tòa án chấp nhận. Đám cưới của Mandela và Nomzamo Winifred
Madikizela được tổ chức vào ngày 14 tháng Sáu năm 1958 tại một nhà thờ
nhỏ. Toàn bộ ban chấp hành trung ương ANC đã được mời nhưng một số đông,
giống như Mandela đang bị truy tố nên không tham dự được. Vì không có
tiền và thời gian để đưa nhau đi tuần trăng mật, đám cưới xong, chú rễ
Mandela lại tiếp tục ra tòa.
Sáng 29 tháng Ba năm 1961, sau hơn bốn năm dài từ khi bị bắt, hỏi cung,
ra tòa với hàng ngàn tài liệu và hàng trăm nhân chứng, chính quyền da
trắng vẫn không đủ bằng chứng tin cậy để kết án ANC là tổ chức Cộng Sản.
Chánh án Rumpff, một thẩm phán có lương tâm công lý, tuyên bố các bị
can vô tội và được thả tức khắc.
Mandela
biết việc trắng án chỉ có giá trị tạm thời, nhà cầm quyền da trắng sau
nhiều năm với biết bao nhiêu tốn kém để truy tố ông chắc chắn thế nào
cũng tìm bắt lại. Thay vì về nhà, Mandela quyết định lui vào hoạt động
bí mật. Hầu hết các hoạt động của Nelson Mandela trong giai đoạn này
được giữ kín với hành tung bất thường. Ông ẩn mình vào ban ngày và
thường hoạt động vào ban đêm. Các lực lượng công an cảnh sát tung nhiều
đợt lục soát để tìm bắt ông. Không những công an mà cả báo chí cũng tung
phóng viên để thăm dò tung tích của Mandela. Nhiều báo phóng đại việc
Mandela tránh thoát hệ thống công an trong đường tơ kẽ tóc.
Thật ra không ai biết thật sự “đường tơ kẽ tóc” đó như thế nào nếu không
do chính Mandela viết trong hồi ký. Một lần khi Mandela lái xe và nhìn
qua người khách đang ngồi trong xe bên trái không ai khác hơn là Đại tá
Spengler, giám đốc sở an ninh Witwatersrand. Tuy Mandela hóa trang nhưng
khó mà qua được đôi mắt chuyên nghiệp của Spengler. Cũng may viên đại
tá có trách nhiệm lùng bắt Mandela đã không nhìn sang hướng của ông. Rất
nhiều lần khác, các cảnh sát yêu nước đã tìm cách báo cho bà Winnie
biết trước khi có cuộc hành quân lục soát xảy ra trong vùng Mandela đang
trốn. Mandela là người tổ chức từ bóng tối cuộc tổng đình công 29 tháng
Năm năm 1961 tại Nam Phi. Nhiều trăm ngàn công nhân Nam Phi chấp nhận
rủi ro mất việc đã ở nhà để ủng hộ lời kêu gọi của Mandela và ANC. Tuy
nhiên, sau khi đánh gía kết quả ngày đình công, Mandela cho rằng nếu
phía chính phủ da trắng đàn áp thẳng tay, cuộc đình công sẽ thất bại.
Trong thời điểm khó khăn và quyết liệt đó, Mandela và nhiều lãnh đạo ANC
nghĩ không có một chọn lựa nào khác hơn là con đường võ trang. Tháng
Sáu năm 1961, cánh quân sự của ANC, Umkhonto we Sizwe gọi tắt là MK,
được thành lập nhằm mục đích lật đổ chính quyền phân biệt chủng tộc da
trắng bằng các biện pháp quân sự. ANC giao trách nhiệm thành lập, tổ
chức và chỉ huy cánh quân sự cho Nelson Mandela. Như chính ông ta thú
nhận “Tôi, chưa bao giờ là một người lính, chưa từng chiến đấu trong mặt
trận nào, thậm chí chưa bắn một viên đạn, lại được giao trọng trách
thành lập một quân đội”. Nhưng cũng từ đó, Mandela bắt đầu đọc các sách
về chiến tranh du kích, sách chiến lược và chiến thuật quân sự và học
rất nhanh.
Ngày 26 tháng Sáu năm 1961, Nelson Mandela, từ một địa điểm bí mật công bố qua báo chí lá thư công khai với nội dung sau:
“Tôi được báo một trát tòa bắt giữ tôi đã được phát ra, đồng thời
công an cảnh sát đang lùng bắt tôi. Hội Đồng Hành Động Quốc Gia thuộc
ANC đã nhận xét kỹ lưỡng và khuyến cáo tôi không nên đầu hàng. Tôi đồng ý
với lời khuyên và sẽ không nộp mình cho một chính quyền mà tôi không
công nhận. Bất cứ nhà chính trị chín chắn nào cũng hiểu rằng trong tình
trạng hiện nay của đất nước, tìm cách làm một thánh tử đạo rẻ tiền qua
việc giao nộp sinh mạng cho cảnh sát là một hành động ngây thơ và là một
trọng tội. Tôi đã chọn con đường này, một con đường khó khăn và đòi hỏi
nhiều rủi ro, gian khổ hơn là ngồi trong nhà tù. Tôi đã phải tự tách
rời khỏi vợ con thân yêu, xa mẹ già và các chị em tôi để sống như một kẻ
sống ngoài vòng pháp luật trên chính đất nước của mình. Tôi đã phải
đóng cửa cơ sở làm việc, từ bỏ ngành nghề chuyên môn và sống trong đói
khát như nhiều triệu đồng bào tôi… Tôi sẽ chiến đấu chống chính quyền
phân biệt chủng tộc sát cánh bên các bạn trong từng phân, từng dặm cho
đến chiến thắng cuối cùng. Các bạn sẽ làm gì? Đến để cùng chiến đấu với
chúng tôi hay hợp tác với chính quyền để trấn áp các đòi hỏi và khát
vọng của nhân dân Nam Phi? Các bạn sẽ im lặng và bàng quan mặc trước
những vấn đề sống và chết của nhân dân tôi và nhân dân chúng ta? Phần
tôi, tôi đã có một chọn lựa cho riêng mình. Tôi sẽ không rời Nam Phi và
cũng chẳng đầu hàng. Chỉ thông qua gian khổ, hy sinh và hành động quân
sự, mục đích tự do mới đạt được. Đấu tranh là cuộc đời tôi. Tôi sẽ tiếp
tục cuộc chiến đấu vì tự do cho đến những ngày cuối của đời mình.”
Sau khi công khai phát động cuộc đấu tranh võ trang, tháng 10 năm 1961,
Nelson Mandela di chuyển vào nông trại Liliesleaf ở Rivonia, vùng ngoại ô
phía bắc Johannesburg. Nông trại được xem là tổng hành dinh của MK.
Nelson Mandela mang tên mới là David Motsamayi, một người giữ nhà do chủ
phái đến chăm sóc nhà cửa đất đai. Sau Mandela, các chỉ huy vùng của MK
lần lượt đến nông trại. MK cũng xoay xở khéo léo để Winnie và các con
đến thăm Mandela vào vài cuối tuần. Cấu trúc tổ chức của MK cũng tương
tự như ANC, gồm bộ chỉ huy trung ương và các địa phương. Hàng ngàn
truyền đơn được rải khắp các thành phố lớn để công bố ngày ra đời của
MK.
Tháng Hai năm 1962, Nelson Mandela bí mật xuất ngoại đại diện cho cả ANC
lẫn MK tại hội nghị của Phong Trào Tự Do Liên Phi cho Đông, Trung và
Nam Phi Châu, gọi tắt là PAFMECSA được tổ chức tại thủ đô Addis Ababa
thuộc Ethiopia. Tổ chức này là tiền thân của Tổ Chức Đoàn Kết Châu Phi
hiện nay. Đây là một hội nghị vô cùng quan trọng vì là lần đầu tiên ANC
có cơ hội kêu gọi sự yểm trợ trực tiếp của các quốc gia Phi Châu trong
cuộc đấu tranh võ trang chống chính phủ da trắng Nam Phi. Trong dịp này,
Mandela thăm viếng và kêu gọi viện trợ từ các quốc gia Phi Châu như
Egypt, Lybia, Tunisia, Ghana, Algeria, Morocco, Mali, Guinea, Sierra
Leone, Liberia, Senegal. Tuy cùng một Phi Châu nhưng không phải quốc gia
nào cũng nhiệt tình ủng hộ. Một số lãnh đạo quốc gia viện trợ năm ngàn
bảng Anh và cũng có một số quốc gia không tặng đồng nào. Trước khi lên
đường trở lại Nam Phi, Nelson Mandela tham dự khóa huấn luyện quân sự
tám tuần lễ tại Ethiopia. Trong thời gian Mandela ra nước ngoài, các
cuộc đánh phá do MK chủ trương diễn ra tại nhiều nơi ở Nam Phi. ANC yêu
cầu Mandela thu ngắn thời gian thụ huấn quân sự để về nước.
Tuy nhiên vài hôm sau khi trở lại Nam Phi, Nelson Mandela bị bắt vào
ngày 5 tháng Tám năm 1962. Lần này, Nelson Mandela bị kết án 5 năm vì
hai tội sách động công nhân đình công và xuất ngoại bất hợp pháp.
Mendela bị đưa đến nhà tù Pretoria Local.
Thời gian ngắn sau đó, tổng hành dinh của MK tại nông trại ở Rivonia bị
khám phá, lục soát và nhiều tài liệu quan trọng bị tịch thu. Phần lớn
các cấp chỉ huy trung ương của MK cũng lần lượt bị bắt. Một số ít may
mắn thoát được nhưng đã phải lưu vong sang các quốc gia Phi Châu. Trong
lúc đang bị tù, Nelson Mandela lại bị truy tố với một tội nặng hơn trong
phiên tòa được báo chí gọi “Chính phủ chống lại Bộ Chỉ Huy Quốc Gia Tối
Cao và những người khác”. Mandela là bị cáo đầu tiên trong danh sách
nên phiên tòa còn được gọi là “chính phủ chống lại Nelson Mandela và
những người khác”. Phiên tòa kéo dài gần hai năm. Khắp thế giới bùng lên
phong trào ủng hộ Mandela. Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc yêu cầu chính
quyền Nam Phi ân xá. Sinh viên đại học London bầu Nelson Mandela làm
chủ tịch sinh viên dù vắng mặt bởi vì Mandela vẫn còn là sinh viên hàm
thụ khoa Luật của đại học London và vừa hoàn tất kỳ thi cuối khóa hai
ngày trước ngày tuyên án.
Đêm trước đó, Mandela và các bạn đã quyết định dù bản án nặng đến đâu
hay thậm chí có tử hình đi nữa, cũng không kháng án. Theo lời Mandela
giải thích với các luật sư bào chữa, kháng án chỉ làm giảm giá trị đạo
đức của lý tưởng mà họ đã và đang đeo đuổi, kháng án cũng có nghĩa là
phải giải thích khác hơn và từ chối những hành động chính nghĩa mình đã
làm. Mandela tin nếu bản án do tòa quyết định là tử hình, chắc chắn sẽ
có một phong trào quần chúng mạnh mẽ đứng lên phản đối, ông không muốn
làm nhẹ tinh thần của cuộc đấu tranh đó. Như Mandela viết, “không có sự
hy sinh nào có thể gọi là quá to lớn trong cuộc đấu tranh vì tự do”.
Mandela còn chuẩn bị cả câu nói cuối cùng trường hợp chánh án De Wet hỏi
ông sau khi nghe tuyên đọc án tử hình: “Tôi chuẩn bị chết trong niềm
tin vững chắc rằng cái chết của tôi sẽ là niềm khát vọng cho lý tưởng mà
tôi đang dâng hiến cuộc đời mình”.
Ngày 12 tháng Sáu năm 1964, ngoại trừ hai người, một được miễn tố và một
nhẹ tội, Nelson Mandela và các bạn còn lại bị kết án chung thân. Kết án
xong, nửa đêm ngày hôm sau, Mandela và 6 thành viên lãnh đạo của MK bị
đưa đến nhà tù Robben Island, tương tự như đảo Alcatraz ngoài vịnh San
Francisco của Mỹ, trong một máy bay quân sự bí mật với các lực lượng
công an cảnh sát vây kín từ nơi tạm giam đến phi trường. Xà lim của
Mandela rộng khoảng 1.8 mét. Mỗi phòng có một tấm bảng giấy ghi tên và
số tù. Bảng của Mandela ghi là “N Mandela 466/64”. Năm đó Mandela 46
tuổi. Mandela dành hơn 100 trang trong hồi ký để mô tả đời sống vô cùng
khắc nghiệt trong suốt 17 năm dài tại nhà tù Robben Island, nơi đó mỗi
ngày ông phải đập đá dưới cơn nắng cháy da và ban đêm ngủ trong xà lim
mới dựng còn rất ẩm thấp. Đó cũng là thời gian Mandela bị nhiễm vi trùng
lao.
Sau 21 năm qua hai trại tù, từ Robben đến Pollsmoor với tất cả gian lao
và chịu đựng, trong một lần khám bịnh thường lệ, bác sĩ khám phá tiền
tuyến liệt của Mandela bị sưng to và cần phải được giải phẫu. Nhưng sau
khi giải phẫu xong, viên điều hành trại tù, Thiếu tướng Munro, đưa
Mandela đến một phòng giam khang trang nhiều so với phòng giam mà ông ta
sống trước đó. Tuy không nói ra, Mandela biết chính quyền da trắng đã
có ý thăm dò phản ứng của ông về cách đối xử mới của chính quyền.
Trong suốt cuộc đời tranh đấu từ khi gia nhập ANC, Nelson Mandela đã
chọn nhiều phương pháp đấu tranh, trong đó có bất bạo động và cả bạo
động. Tuy nhiên, sau nhiều năm suy tư về con đường đất nước đã trải qua
và hy vọng nào còn đang chờ trước mặt, Mandela đã thay đổi phương pháp
đấu tranh. Ông kết luận “Sự thay đổi, tôi quyết định, không phải chỉ là
trách nhiệm mà còn là cơ hội… Tôi đắn đo từ lâu về việc bắt đầu nói
chuyện với phía chính phủ. Tôi kết luận thời gian đã đến khi cuộc đấu
tranh sẽ thuận lợi hơn nếu được đẫy mạnh qua phương cách đàm phán. Nếu
chúng ta không bắt đầu đàm phán sớm, cả hai bên phải lao vào đêm tối của
áp bức, bạo động và chiến tranh.”
Nelson Mandela viết trong hồi ký “Sự thay đổi, tôi quyết định, không
phải chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội… Tôi đắn đo từ lâu về việc bắt
đầu nói chuyện với phía chính phủ. Tôi kết luận thời gian đã đến và cuộc
đấu tranh sẽ thuận lợi hơn khi cần được đẫy mạnh qua đàm phán. Nếu
chúng ta không bắt đầu đàm phán sớm, cả hai bên phải lao vào đêm tối của
áp bức, bạo động và chiến tranh.”
Mandela nhìn lại cuộc đấu tranh của ANC trong suốt 70 năm, rất nhiều
thường dân vô tội đã bị giết nhưng chính quyền phân biệt chủng tộc da
trắng vẫn nhất định không nhường bước. Thật là vô nghĩa nếu cuộc đấu
tranh võ trang tiếp tục và mỗi ngày nhiều mạng sống bị cướp mất đi.
Không ít các hoạt động của MMK là hành động khủng bố. Tuy nhiên, một bên
nào muốn dừng lại cũng không phải là chuyện dễ dàng. Nhà cầm quyền da
trắng đã nhiều lần khẳng định ANC và MK là những tổ chức khủng bố Cộng
Sản trong lúc ANC cũng không kém phần quyết liệt khi cho rằng chính phủ
Nam Phi là chỉ là một chính quyền phát-xít, phân biệt chủng tộc và do đó
sẽ không có gì để đàm phán với họ cho đến khi nào họ công nhận ANC. Về
phần nội bộ ANC, việc thông tin giữa Mandela và các lãnh đạo trung ương
của ANC cũng rất khó khăn vì một số đang bị tù, một số khác đang lưu
vong và số còn lại hoạt động bí mật rải rác khắp nơi.
Nelson Mandela cuối cùng chọn một giải pháp, đó là tự quyết định cách
giải quyết vấn đề một mình và tuyệt đối không cho ai, kể cả các thành
viên ANC đang bị tù chung biết. Nếu thành công sẽ có lợi cho đất nước và
nếu thất bại chỉ một mình ông ta chịu trách nhiệm. ANC có thể cho rằng
vì Mandela không tiếp cận với thực tế và đầy đủ thông tin nên đã có
những quyết định không đúng với đường lối của ANC.
Vài tuần sau khi về phòng giam mới, Mandela viết thư cho bộ trưởng tư
pháp Nam Phi Kobie Coetsee và đề nghị thảo luận về những vấn đề cần thảo
luận. Đầu năm 1986, Mandela tiếp đón một phái đoàn bảy thành viên đại
diện nhiều quốc gia thăm viếng Nam Phi để tìm hiểu sự thật. Phái đoàn do
Tướng Olusegun Obasanjo, cựu tổng thống Nigeria và cựu ngoại trưởng Úc
Malcolm Fraser cầm đầu. Tại buổi gặp gỡ, Nelson Mandela lần nữa đưa ra
chủ trương đối thoại nhưng nhấn mạnh đó là việc đối thoại giữa ANC và
chính phủ chứ không phải riêng ông ta và chính phủ. Mandela khẳng định
với phái đoàn quốc tế rằng ông là một người Quốc Gia Nam Phi chứ không
phải là Cộng Sản. Mặc dù có làm việc với nhiều đảng viên Cộng Sản,
Mandela từ lâu đã quan niệm rằng cuộc đấu tranh của ANC chống chính
quyền da trắng là cuộc đấu chống kỳ thị chủng tộc chứ không phải là cuộc
đấu tranh giai cấp hay đấu tranh vì lý do kinh tế như đảng Cộng Sản Nam
Phi lý luận. Tuy chưa tuyên bố công khai từ bỏ phương tiện võ trang,
Mandela thừa nhận rằng bạo động không bao giờ có thể là giải pháp cuối
cùng cho vấn đề Nam Phi. Trong buổi hội kiến với phái đoàn quốc tế,
Mandela cũng đòi hỏi phía nhà cầm quyền da trắng phải bày tỏ thiện chí
trước bằng cách giải tỏa vòng vây công an cảnh sát khỏi các thôn ấp da
đen. Nếu làm được như vậy, ông tin phía ANC cũng sẽ đáp ứng bằng cách
hạn chế các cuộc tấn công để làm tiền đề cho đàm phán. Mandela cho phái
đoàn biết việc trao trả tự do cho bản thân ông trước áp lực quốc tế đang
phát động không giải quyết được vấn đề tranh chấp tại Nam Phi.
Trong
năm 1987, Tổng thống Nam Phi Botha thành lập một ủy ban bí mật trong đó
có bộ trưởng tư pháp Kobie Coetsee có trách nhiệm đàm phán riêng với
Nelson Mandela. Các buổi thảo luận bí mật diễn ra nhiều lần giữa Mandela
và ủy ban tổng thống. Vào thời điểm quan trọng này, Nelson Mandela xét
thấy cần phải hội ý với các lãnh đạo MK đang bị tù với ông và hiện đang
bị giam giữ ở tầng trên. Ông gặp riêng từng người và tất cả đều không
chống đối phương pháp đàm phán nhưng đồng thời cũng không tin tưởng hoàn
toàn nơi thiện chí của nhà cầm quyền da trắng. Ngoài ra, Oliver Tambo,
lãnh tụ của ANC đang hoạt động bên ngoài đã biết về sự đối thoại đang
diễn ra giữa Mandela và chính quyền, và đã đặt ra cho Mandela nhiều câu
hỏi. Để các lãnh đạo ANC bên ngoài an tâm, trong một tin nhắn bí mật cho
Oliver Tambo, Mandela xác định việc đàm phán thật sự chỉ diễn ra giữa
ANC và chính quyền da trắng chứ không phải giữa ông ta và chính quyền da
trắng.
Ngày 4 tháng Bảy năm 1989, Nelson Mandela bí mật được đưa đi gặp tổng
thống Nam Phi P. W. Botha tại dinh tổng thống vào lúc 5:30 sáng. Trong
buổi hội kiến ngắn chưa đầy 30 phút, Nelson Mandela yêu cầu tổng thống
Botha trả tự do cho tất cả tù chính trị Nam Phi trong đó có cả ông. Tổng
thống Botha từ chối. Tuy nhiên, không đầy một tháng sau, Botha từ chức
tổng thống Cộng Hòa Nam Phi và quyền lãnh đạo quốc gia được trao qua de
Klerk. Tháng mười cùng năm, de Klerk tuyên bố trao trả tự do cho bảy
lãnh tụ cao cấp của ANC.
Tháng Chạp cùng năm, tổng thống de Klerk mời Mandela hội kiến. Trong dịp
này, Nelson Mandela nhắc lại các đòi hỏi tiên quyết trong đó bao gồm
việc hủy bỏ luật ngăn cấm ANC hoạt động, trả tự do cho tất cả tù chính
trị còn lại, hủy bỏ luật tình trạng khẩn cấp quốc gia, cho phép các lãnh
tụ đảng phái chính trị đang lưu vong trở về nước. Mandela lưu ý tổng
thống de Klerk, nếu chính phủ Nam Phi không làm được những điều đó, một
mai khi được trả tự do, Nelson Mandela tại tiếp tục tranh đấu như trước
và chẳng lẽ chính phủ da trắng lại bắt giam, kết án và tù đày ông như
hai mươi bảy năm trước đó hay sao.
Ngày 2 tháng Giêng năm 1990, Tổng thống F. W. de Klert trong diễn văn
lịch sử đọc trước quốc hội Nam Phi tuyên bố hủy bỏ chính sách phân biệt
chủng tộc và đặt nền tảng cho cải cách dân chủ tại Nam Phi. Nói chung,
tổng thống de Klerk đã thực hiện hầu hết các điều khoản do Mandela yêu
cầu trong lần gặp gỡ trước đó. Lần đầu tiên trong 30 năm, hình ảnh và
các lời tuyên bố của Nelson Mandela được công khai trưng bày trong dân
chúng.
Ngày 10 tháng Giêng sau đó, de Klerk mời Nelson Mandela gặp lần nữa và
thông báo chính phủ sẽ đưa ông về lại Johannesburg và trao trả tự do cho
ông tại đó vào ngày hôm sau. Nelson Mandela từ chối việc được trả tự do
tại Johannesburg và cũng không muốn được trả sớm như vậy. Trong suốt 27
năm tranh đấu để được tự do, không bên nào nghĩ cuối cùng việc trả tự
do ở đâu lại trở thành vấn đề tranh cãi. Cả Mandela lẫn nhà cầm quyền
cũng không ngờ có một ngày bên chính phủ muốn thả tự do cho tù nhân
Mandela nhưng chính tù nhân Mandela lại muốn ở thêm một tuần lễ nữa.
Cuối phiên họp, mỗi bên nhượng bộ một phần. Nelson Mandela sẽ ra khỏi
cổng nhà tù ông đang ở nhưng không thể ở lại thêm ngày nào khác.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment