Trần Trung Đạo (Danlambao) -
Một câu hỏi mà Mandela, lãnh tụ của Nghị Hội Toàn Quốc Nam Phi (African
National Congress) gọi tắt là ANC, trăn trở suốt gần mười ngàn đêm
trong tù từ đảo Robben đến Pollsmoor, và cũng là câu hỏi cho bất cứ ai
mang lý tưởng cứu đời, rằng ông ta thật sự muốn gì và sẽ làm gì sau khi
bước ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù. Tiếp tục cuộc đấu tranh một mất một
còn với chính quyền da trắng? Tiếp tục đi xin súng đạn ngoại bang như
ông đã từng làm trong thập niên 1960 về tàn sát người dân Nam Phi? Tiếp
tục cuộc khởi nghĩa võ trang để mong có ngày thu lại cả vốn lẫn lời bằng
cách trả thù nặng nề và thảm khốc hơn những kẻ đã từng bỏ tù ông, hành
hạ ông?
Và mỗi lần suy nghĩ về những câu hỏi như thế, trong nhận thức của Mandela lại vọng lên câu nói cuối cùng vào buổi sáng ngày 11 tháng Sáu 1964 tại phiên tòa Rivonia “Tôi cống hiến cuộc đời cho cuộc tranh đấu của nhân dân Nam Phi. Tôi đấu tranh chống sự thống trị da trắng và cũng đấu tranh chống sự thống trị da đen. Tôi ôm ấp lý tưởng về một xã hội tự do và dân chủ trong đó con người sống hòa thuận và có cơ hội bình đẳng. Đó là lý tưởng tôi hy vọng sống và hoàn thành. Nhưng nếu cần, tôi cũng chuẩn bị để chết vì lý tưởng của mình”.
Câu nói đó suốt mấy mươi năm đã hòa trong tiếng sóng bên bờ Cape Town vọng về mỗi đêm như một lời nhắc nhở để rồi Mandela, dù trong lưu đày, bị khổ sai hay làm tổng thống, giải Nobel Hòa Bình, lý tưởng của ông như ngọn hải đăng trên đảo Robben vẫn rực sáng một màu hy vọng. Không ai khuyên ông, không ai dạy ông, chính ước mơ được thấy “một xã hội tự do và dân chủ trong đó con người sống hòa thuận và có cơ hội bình đẳng” giúp ông có được những chọn lựa chính trị vượt qua tầm thời đại và vượt qua những khổ đau chịu đựng của riêng ông.
Nhắc lại, buổi trưa ngày 12 tháng Sáu năm 1964, chánh án De Wet kết tội
Mandela và các bạn chiến đấu của ông trong phong trào Umkhonto we Sizwe,
cánh võ trang của ANC gọi tắt là MK hơn 200 tội trong đó có “phá hoại,
phát động chiến tranh, tấn công Cộng hòa Nam Phi bằng các phương tiện võ
trang, âm mưu lật đổ chính phủ” và nhận án tù chung thân khổ sai. Trong
thời gian tòa luận án, biện lý chính phủ có nghĩ đến việc đề nghị án tử
hình nhưng rút lại vì phản ứng quốc tế.
Mandela đến đảo Robben vào mùa đông 1964 và sống ở đó trong điều kiện vô
cùng khắc khổ. Ban ngày phải đục đá làm cầu tàu, ban đêm nằm trên sàn
xi măng ẩm thấp. Mỗi năm chỉ được một lần thăm nuôi và kéo dài vỏn vẹn
30 phút. Sáu tháng mới được phép viết một lá thư và cũng sáu tháng mới
được phép nhận một lá thư. Mandela bị cai ngục và tù nhân da trắng hiếp
đáp và hành hung. Những sự phản đối của ông và các bạn tù chỉ là những
viên sỏi ném vào biển Nam Đại Tây Dương không vang vọng được đâu xa.
Nelson Mandela đã chịu đựng suốt 17 năm và nhiễm vi trùng lao phổ trong
thời gian này. Trong nỗi cô đơn tận cùng, người bạn đường thân thiết
nhất của ông chính là lý tưởng “tự do, dân chủ và bình đẳng” mà ông ôm
ấp.
Nam Phi trong thập niên 1980 là những năm đầy bạo động. Mặc dù bản thân
Mandela và nhiều cấp chỉ huy MK bị tù hay lưu đày nhưng cuộc đấu tranh
bằng các phương tiện vũ trang chẳng những không giảm bớt mà ngày càng
tăng. Năm 1981, các lực lượng chính phủ tấn công các căn cứ của ANC ở
Maputo, Mozambique giết nhiều trẻ em và phụ nữ. Để trả thù, đầu tháng
Chạp 1982, MK đặt chất nổ tại căn cứ nguyên tử Nam Phi trong vùng ngoại ô
Cape Town. Cuối tháng Chạp cùng năm, chính phủ Botha tung hàng loạt các
cuộc tấn công vào các căn cứ tiền phương của MK tai Maseru, Lesotho làm
thiệt mạng 42 người, trong đó có hàng tá phụ nữ và trẻ em. Tháng Năm
1983, MK trả đũa bằng cách đặt bom tại một căn cứ không quân Nam Phi
ngay trung tâm thành phố làm mười chín người chết và hàng trăm, trong đó
rất đông thường dân vô tội, bị thương. Và như thế, MK đặt bom và chính
phủ lùng diệt, chính phủ tấn công và MK trả đũa, máu của nhân dân Nam
Phi dù chiến đấu cho bên nào, đã đổ quá nhiều trong suốt hai mươi năm
bạo động.
Năm 1982, Nelson Mandela được di chuyển từ đảo Robben đến nhà tù
Pollsmoor, nơi ông có thể tiếp cận nhiều hơn với tin tức bên ngoài.
Mandela viết trong hồi ký “Giết chết thường dân vô tội là một thảm kịch. Đọc con số người chết tôi cảm thấy vô cùng khủng khiếp”.
Ông nhận thức rằng trước khi bàn chuyện đúng hay sai, chính nghĩa hay
phi nghĩa, dù đang ở trong tù, ông cũng là người chịu trách nhiệm cho
những cái chết của thường dân vì cánh võ trang của ANC do chính ông chủ
trương.
Trong giai đoạn này, chính phủ da trắng Nam Phi áp dụng chính sách “chia
để trị” nhằm cô lập và phân hóa nội bộ các phong trào chống phân biệt
chủng tộc tại Nam Phi bắt đầu từ cấp lãnh đạo các đảng phái, tổ chức, bộ
lạc xuống tận các địa phương. Chính sách này là một con dao hai lưỡi
không chỉ áp dụng đối với các thành phần da màu đang chống chính phủ bên
ngoài nhà tù mà cũng áp dụng cho cả Mandela và các bạn đang ở tù cùng
với ông. Từ năm 1973, ngay trong thời gian Mandela còn bị giam trên đảo
Robben, Bộ trưởng đặc trách nhà tù Nam Phi Jimmy Kruger đã tìm cách
thuyết phục Mandela để phủ nhận phương pháp bạo động, hứa sẽ giảm án và
thậm chí được trả tự do với điều kiện ông chịu định cư luôn tại quê
hương Transkei. Mandela không chấp nhận.
Năm
1985, Tổng thống Nam Phi Phi P. W. Botha lần nữa đề nghị trả tự do cho
Mandela chỉ cần ông “phủ nhận một cách không điều kiện việc dùng bạo
động như võ khí chính trị”. Mandela lại lần nữa từ chối bởi vì tự do của
ông phải gắn liền với tự do của đất nước.
Trong một lá thư gởi đến nhân dân Nam Phi qua trung gian con gái Zindzi
Mandela đọc trong buổi mít tinh của ANC tại Soweto, Nandela viết “Tôi
luôn ấp ủ giấc mơ được trả tự do cho cá nhân tôi, nhưng tôi quan tâm
hơn là tự do của nhân dân Nam Phi… Tự do đem lại cho riêng tôi có nghĩa
gì một khi ANC, tổ chức của nhân dân vẫn còn bị ngăn cấm? Tự do đem lại
cho riêng tôi có nghĩa gì một khi vợ con tôi phải sống lưu đày tại
Branfort? Tự do đem lại cho riêng tôi có nghĩa gì một khi quyền công dân
của nhân dân Nam Phi không được tôn trọng? Chỉ có con người tự do mới
có thể đàm phán. Tù nhân không thể ký kết một hợp đồng nào. Tôi không
thể và sẽ không quyết định gì một khi nhân dân Nam Phi và bản thân tôi
chưa được tự do. Tự do của tôi không thể tách biệt khỏi quyền tự do của
nhân dân Nam Phi”.
Đối với việc tố cáo phương pháp bạo động, Nelson Mandela cho rằng không
phải chỉ riêng ông là người cần phủ nhận bạo động mà chính phủ phân biệt
chủng tộc mới cần tố cáo bạo động vì chính họ đã trấn áp dã man đa số
da màu từ nhiều năm trước. Mandela cảnh cáo chính quyền da trắng, nếu
một ngày nào đó ông ra khỏi nhà tù, và nếu nhân dân Nam Phi vẫn còn bị
trấn áp, ông cương quyết sẽ tranh đấu như đã từng tranh đấu.
Để làm nhẹ áp lực quốc tế, chính phủ Botha công bố hủy bỏ luật hôn nhân
dựa trên màu da sắc tộc. Khi Giáo sư Samuel Dash thuộc đại học
Georgetown, cựu cố vấn của Thượng viện Hoa Kỳ về vụ Watergate vào tù
thăm Nelson Mandela và hỏi ý kiến ông về việc chính phủ da trắng Botha
hủy bỏ luật cấm hôn nhân dựa trên màu da, Mandela trả lời Samuel Dash
nhưng đồng thời cũng nhắn cho Tổng thống Pieter Willem Botha “Tôi không có tham vọng cưới một người vợ da trắng hay bơi trong hồ bơi của người da trắng”.
Điều quan tâm hàng đầu của Mandela là quyền bầu phiếu, quyền ứng cử và
các quyền căn bản khác của con người trong một nước tự do, dân chủ. Tóm
lại, quyền chính trị của người dân bất cứ thuộc màu da sắc tộc nào tại
Nam Phi phải được tôn trọng như một trong những điều kiện tiên quyết chứ
không phải chỉ là việc hôn nhân cưới hỏi.
Như đã viết trong bài trước,
trong suốt cuộc đời tranh đấu từ khi gia nhập ANC, Nelson Mandela đã
chọn nhiều phương pháp đấu tranh, trong đó có bất bạo động và cả bạo
động. Tuy nhiên, sau nhiều năm suy tư về con đường đất nước đã trải qua
và hy vọng nào đang chờ trước mặt, Mandela đã thay đổi phương pháp đấu
tranh. Nelson Mandela viết trong hồi ký “Sự thay đổi, tôi quyết định,
không phải chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội... Tôi đắn đo từ lâu về
việc bắt đầu nói chuyện với phía chính phủ. Tôi kết luận thời gian đã
đến và cuộc đấu tranh sẽ thuận lợi hơn khi cần được đẫy mạnh qua đàm
phán. Nếu chúng ta không bắt đầu đàm phán sớm, cả hai bên phải lao vào
đêm tối của áp bức, bạo động và chiến tranh”.
Sau ba năm đàm phán ngay từ trong nhà tù giữa Mandela và ủy ban bí mật
do chính Tổng thống Pieter Willem Botha lập ra, lúc 3:30 chiều ngày 11
tháng Giêng năm 1990, Nelson Mandela bước ra khỏi cổng nhà tù thứ tư và
cuối cùng Victor Verster. Đây là một chiến thắng lớn nhưng chỉ là bước
đầu tiên trong hành trình hòa giải quốc gia đầy gian nan mà Nelson
Mandela vừa mới lên đường.
Không giống như 27 năm trong các nhà tù, ngoại trừ tư tưởng tự do trong ý
thức của mình, tất cả phần con lại, từ chỗ ăn, chỗ ở, miếng cơm tù,
manh áo vá đều được sắp xếp sẵn, ra khỏi tù, việc chọn một chỗ ngủ trong
đêm tự do đầu tiên cũng là một vấn đề. Nelson Mandela chọn dành đêm đầu
tiên với Tổng giám mục Anh giáo Desmond Tutu, người ông hết sức kính
phục và cũng là người qua tư cách đạo đức và lòng cương quyết đã thôi
thúc cả đất nước trong những năm tháng đầy khó khăn.
Ngày 12 tháng Giêng, Nelson Mandela họp báo để giải thích quan điểm của
ông về tương lai Nam Phi. Dù sau 27 năm bị khổ sai, Mandela không chôn
giấu trong lòng sự oán hận nào đối với thiểu sống da trắng cai trị đất
nước nhưng nhấn mạnh đến mục tiêu thay đổi cơ chế chính trị. Ông khẳng
định “chúng tôi không muốn tàn phá đất nước trước khi giải phóng đất
nước, và loại bỏ da trắng cũng có nghĩa là tàn phá đất nước”. Tương lai
của Nam Phi không đặt trên tiêu chuẩn màu da hay sắc tộc mà là tiêu
chuẩn công dân.
Dù nhượng bộ, chính phủ của Tổng thống de Klerk vẫn còn nắm trong tay bộ
máy công an, tình báo và lực lượng quân đội hùng mạnh nhất châu Phi. De
Klerk không có ý định đầu hàng quyền lực trừ phi có một áp lực mạnh mẽ
từ nhân dân và quốc tế. Sau một vòng thăm viếng các quốc gia Phi Châu để
gây cảm tình trong vùng và gây áp lực quốc tế đối với chính phủ de
Klerk, tháng Ba 1990, ANC và de Klerk bắt đầu vòng đầu đàm phán chính
thức. Trước ngày họp, hai bên có lập trường khác biệt. Phía chính phủ de
Klerk không muốn áp dụng phương pháp bầu cử kiểu Anh, theo đó đảng nào
chiếm đa số ghế trong quốc hội sẽ là đảng cầm quyền. Ông ta muốn duy trì
quyền thiểu số bằng cách tạo ra một hệ thống lãnh đạo quốc gia theo
dạng san sẻ quyền lực.
Phái đoàn đại diện ANC trong cuộc đàm phán lịch sử gồm phần lớn là những
người đã dâng hiến cả cuộc đời cho lý tưởng tự do chủng tộc Nam Phi,
gồm Walter Sisulu, Joe Slovo, Alfred Nzo, Thabo Mbeki, Ahmed Kathrada,
Joe Modise, Ruth Mompati, Archie Gumede, Reverend Beyers Naude, Cheryl
Carolus, và Nelson Mandela.
Buổi đàm phán đầu tiên trái với lo lắng của cả hai bên. Thay vì với
không khí nặng nề và thái độ quyết liệt, phiên họp diễn ra trong vòng
thân mật và vui vẻ không ngờ. Đại biểu hai phái đoàn mừng rỡ bắt tay như
gặp lại người thân quen sau nhiều năm xa cách chứ không phải những
người cách đó vài hôm đã không đội trời chung. Tổng thống de Klerk làm
mọi người ngạc nhiên khi tuyên bố bản chất của chế độ phân biệt chủng
tội vốn đã mang mầm xấu và thành thật xin lỗi. Tuy không phải là lời
tuyên bố chính thức trước nhân dân, đó là những điều mà các đại biểu
phái đoàn ANC chưa bao giờ nghe. Đại biểu ANC Thabo Mbeki, tổng thống
Nam Phi dân chủ thứ hai sau Mandela, trả lời báo chí với giọng hài hước
chiều hôm đó “Hai bên đã khám xét nhau và đồng ý là không bên nào có
sừng”.
Mơ
ước riêng tư nhất của Nelson Mandela sau ngày được trả tự do là được đi
thăm mộ mẹ nhưng mãi tới tháng Tư ông mới có chút thời gian để về cố
quận Qunu, quê hương của tuổi thơ và nơi mẹ ông, bà Noqaphi Nosekeni,
yên nghỉ. Mẹ ông qua đời vào năm 1968 khi ông còn ở trong tù và nhà cầm
quyền da trắng không cho phép ông về đưa tang mẹ. Mấy chục năm sau, quê
hương Qunu vẫn nghèo nếu không muốn nói là nghèo hơn trước. Qunu là nơi
chôn giấu kho tàng của tuổi hoa niên tươi đẹp của Nelson Mandela, nơi
ông lớn lên và nơi ông chọn để an nghỉ sau khi chết.
Một biến cố khác là việc vợ ông, bà Winnie Mandela, bị đưa ra tòa về tội
bắt cóc và đánh đập bốn thanh niên tại nhà bà vào năm 1988. Một thiếu
niên 14 tuổi chết và ba thanh niên còn lại tố cáo nhóm cận vệ của bà
Winnie Madikizela Mandela đã khủng bố cả thành phố Soweto. Trước ngày
tòa nghe nhân chứng, Gabriel Mekgwe, 22 tuổi và là một trong ba thanh
niên sống sót bị mất tích. Hai nhân chứng còn lại từ chối cung khai. Sau
ba tháng rưỡi, tòa kết tội bà Winnie đã có liên hệ đến việc bắt cóc và
là tòng phạm đối với việc đánh đập các thanh thiếu niên. Nelson Mandela
tuy bên ngoài ủng hộ vợ nhưng rất đau lòng trước sự thật được phô bày.
Nelson Mandela còn chịu đựng một vết thương riêng tư khác trong cuộc đời
vốn đã đầy gian nan thương khó. Khi còn ở trong tù, Nelson Mandela đã
biết vợ mình đang ngoại tình với Dali Mpofu, một luật sư nhỏ hơn bà 27
tuổi. Việc ngoại tình giữa Winnie Mandela và Dali Mpofu còn lén lút kéo
dài ngay cả sau khi Mandela được tự do. Bà Winnie gặp Nelson Mandela khi
chỉ mới 23 tuổi và Mandela đã gần 40 tuổi. Họ yêu nhau và cưới nhau
trong vội vàng. Ba năm sau, Mandela rút vào hoạt động bí mật cho đến
ngày bị bắt và vào tù. Winnie Mandela viết trong hồi ký “Tôi có rất ít
thời gian để yêu chồng”. Khi biết vợ ngoại tình, Mandela dĩ nhiên đau
xót nhưng cảm thông và tha thứ. Ông chỉ viết thư yêu cầu bà Winnie đưa
tình nhân ra khỏi nhà. Trong thời gian đó, sự chung thủy của Winnie đối
với chồng chỉ còn trong lý tưởng đấu tranh chính trị, tình yêu nam nữ
thì đã tàn phai. Tình cảm trong người phụ nữ này đã bị xoi mòn và cạn
kiệt theo năm tháng đợi chờ. Tuy nhiên về mặt hình thức, bà Winnie vẫn
tiếp tục đóng trọn vai trò người phụ nữ can đảm, anh hùng, vợ của Nelson
Mandela.
Sau khi Mandela ra tù, hai vợ chồng mới khám phá ra họ còn cách nhau xa
hơn khi Mandela còn ở trong tù. Năm 1990, Mandela không còn là lực sĩ
quyền Anh, một luật sư xông xáo và một thanh niên lãng mạn mà là một cụ
già 72 tuổi, ốm yếu, bịnh hoạn. Ngay cả trong sinh hoạt hàng ngày hai
người cũng khác. Mandela theo thói quen vẫn ăn ngủ đúng giờ giấc của nhà
tù từng quy định trong khi bà Winnie, trẻ hơn chồng 17 tuổi, còn sung
sức, thức khuya và dậy trễ. Những ngôn ngữ tình yêu chất chứa trong
những lá thư chỉ còn là kỷ niệm. Trong phòng ngủ của hai vợ chồng, tấm
thiệp Giáng Sinh cuối cùng Nelson Mandela gởi bà Winnie vào tháng Chạp
1989 với hàng chữ “Darling, I love you” được treo trịnh trọng
nhưng cũng thật mỉa mai với thực tế lạnh lùng chăn gối giữa hai người.
Về mặt hình thức, Mandela và Winnie vẫn tay trong tay xuất hiện trước
công chúng nhưng họ không có ngay cả một đêm gần gũi nhau như Mandela
tiết lộ với tòa án khi thỉnh nguyện được ly dị vợ “Winne chưa bao giờ vào phòng ngủ khi tôi còn thức”.
Hai mươi bảy năm sống ngoài mọi sinh hoạt xã hội bình thường đã làm ông
trở thành lạc lõng, cô độc giữa vinh quang của Nam Phi và nhân loại dành
cho ông. Tuy nhiên, khi lá thư đánh ghen của bà Winnie viết gởi người
yêu Dali Mpofu với những lời dâm ô hạ cấp như việc tố cáo Mpofu suốt
ngày chỉ biết “chạy vòng vòng để làm tình với phụ nữ” đã bị báo The
Johannesburg Sunday Times đăng tải nguyên văn vào tháng 9 1992 là nhát
búa đập vào trái tim rạn nứt. Chưa đầy tháng sau, Nelson Mandela ly thân
với bà Winnie và ngày 20 tháng Ba 1996, tòa án cho phép Tổng thống
Nelson Mandela chính thức được ly dị bà ta.
Mặc dù hạnh phúc gia đình tan nát, trong cuộc đấu tranh chống chính
quyền phân biệt chủng tộc da trắng, Nelson Mandela chứng tỏ vô cùng sáng
suốt, minh mẫn và cương quyết. Báo chí Nam Phi gọi Mandela là “con
người sắt” trong tiến trình đàm phán. Cuộc đàm phán vòng đầu giữa ANC và
chính phủ de Klerk chấm dứt với nhiều tiến bộ. Hai bên cam kết theo
đuổi tiến trình giải thể chế độ phân biệt chủng tộc, hủy bỏ Tình Trạng
Khẩn Cấp Quốc Gia, soạn thảo hiến pháp mới, thành lập chính phủ chuyển
tiếp gồm đại diện các đảng phái. Tuy nhiên trong thời gian sau đàm phán,
bạo động lại tiếp tục tại nhiều nơi nhưng chính phủ de Klerk đã không
có những biện pháp ngăn chận hữu hiệu. ANC tuyên bố đình hoãn đàm phán
với chính phủ.
Tháng Bảy 1991, Nelson Mandela được chính thức bầu vào chức vụ Chủ tịch
ANC tại đại hội toàn toàn quốc được tổ chức lần đầu tiên trong lãnh thổ
Nam Phi. Trong chức vụ mới, Nelson Mandela quyết tâm theo đuổi mục tiêu
dân chủ Nam Phi bằng cách tái lập đàm phán với chính phủ de Klerk và cơ
hội đầu tiên đã diễn ra tại CODESA gồm đại diện 18 đảng phái hoạt động
tại Nam Phi để thảo luận về giải pháp dân chủ cho Nam Phi với sự quan
sát của Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Anh, Cộng Đông Âu Châu và Tổ Chức Đoàn
Kết Phi Châu. Tuy nhiên, đại hội đã không diễn ra như Mandela mong
muốn, Tổng thống de Klerk dùng diễn văn bế mạc để tấn công vào uy tín
của ANC. Mandela trả đũa bằng cách phê bình Tổng thống de Klerk che dấu
nghị trình riêng, không thành thật và tìm cách để duy trì chế độ phân
biệt chủng tộc dưới một hình thức khác. ANC tẩy chay cuộc đàm phán.
Sau bốn tháng ngưng trệ, tháng Năm 1992, cuộc đàm phán lại tiếp tục, gọi
là CODESA 2 được khai mạc ngày 17 tháng Sáu 1992. Qua cuộc đàm phán lần
này, hai bên đồng ý việc chuyển tiếp dân chủ sẽ được tiến hành qua hai
giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là thành lập một Hội đồng Chấp hành Chuyển
tiếp đa đảng đại diện cho các thành phần tham dự CODESA 2 để hoạt động
như một chính phủ lâm thời và soạn thảo hiến pháp. Giai đoạn 2 là tổng
tuyển cử. Tuy nhiên khi đi vào chi tiết của các điểm đã được thỏa thuận
như tỉ lệ số phiếu cần thiết trong quốc hội để thông qua các đạo luật,
ANC và chính phủ của Tổng thống de Klerk lần nữa rơi vào bế tắc.
Bên cạnh sự bế tắc liên quan đến nội dung của đàm phám, các thành thần
cực hữu da trắng võ trang mà Mandela gọi là lực lượng thứ ba, cũng tìm
mọi cách để phá hoại tiến trình đàm phán, đưa đất nước vào vòng nội
chiến trong đó có cả việc ám sát các thành viên uy tín và ưu tú của ANC
như trường hợp Chris Hani, cựu Tham mưu trưởng của MK bị bắn ngay tại
nhà.
Tháng Chín 1992, Mandela và Tổng thống de Klerk họp riêng và ký kết một
văn thư thỏa thuận làm tiêu chuẩn chỉ nam cho các cuộc đàm phán theo
sau. Vào tháng Chạp 1992, hai bên ANC và chính phủ lại ngồi vào bàn hội
nghị lần nữa. Tổng thống de Klerk đồng ý thành lập Hội đồng Chấp hành
Chuyển tiếp để chuẩn bị cho tổng tuyển cử và đồng ý với nội dung của
hiến pháp tạm thời. Điểm quan trọng nhất đối với Tổng thống de Klerk là
việc quy định thế nào là đa số và sự an toàn của thiểu số da trắng sau
tổng tuyển cử. De Klerk đòi hỏi bên thắng phải nhận được hai phần ba
tổng số phiếu bầu. ANC không đồng ý và đặt tỉ lệ đa số tại 60 phần trăm.
Ngày hôm sau de Klerk đồng ý.
Mặc dù 85 phần trăm dân số Nam Phi là da đen, không phải người da đen
nào cũng ủng hộ ANC. Các thành phần dân chúng rất ô hợp và phân tán theo
từng địa phượng, bộ lạc, tôn giáo và thậm chí có nhiều đảng tuyên bố
tẩy chay bầu cử, do đó, muốn thắng số phiếu trên 60 phần trăm không phải
chuyện dễ dàng. ANC đã phát động một chiến dịch vận động quy mô mới với
hơn một trăm văn phòng do các lãnh đạo dày kinh nghiệm phụ trách.
Nelson Mandela không phải là nhà hùng biện nên dù với sự giúp đỡ của một
nhóm chuyên viên viết diễn văn xuất sắc, ông vẫn không thành công trong
những buổi diễn thuyết như chính ông thú nhận trong hồi ký. Patti
Waldmeir của báo The Financial Times nhận xét Mandela như “là một trong
những nhà diễn thuyết buồn chán nhất Nam Phi”. Những nơi ông dừng lại,
hàng ngàn người tập trung chào đón, nhưng sau khi ông nói nửa chừng, một
phần hai dân chúng đã ra về. Dân chúng đến để được nhìn tận mắt một
Nelson Mandela huyền thoại chứ không hẳn để nghe ông diễn thuyết. Khi
tranh luận với de Klerk trước hệ thống truyền hình, ANC đã phải mời
Frank Greer, cựu cố vấn của Tổng thống Bill Clinton sang để chỉ dẫn cách
ăn nói. Nelson Mandela vận động tranh cử với quan điểm hòa giải và hứa
bảo đảm quyền của mọi người không phân biệt màu da. Ông dành thời gian
để thăm viếng xã giao Tổng Giám đốc Cảnh sát, Tham mưu trưởng Quân đội
và yêu cầu họ tiếp tục chức vụ trong trường hợp ANC thắng cử.
Quốc kỳ của Cộng hòa Nam Phi cũng là một vấn đề. Ngay khi ra khỏi tù,
Nelson Mandela đã đề nghị Nam Phi phải có một lá cờ mới thật sự đại diện
cho toàn dân chứ không phải chỉ đại diện cho thiểu số cai trị. Quốc hội
lâm thời được trao trách nhiệm công bố một quốc kỳ mới trước ngày bầu
cử tổng thống nhưng không một mẫu cờ nào trong số 7, 000 phác họa được
quốc hội lâm thời thông qua. Mãi cho tới 15 tháng Ba 1994, mẫu quốc kỳ
do Frederick Brownell vẽ mới được công nhận. Quốc kỳ này cũng chỉ được
gọi là quốc kỳ lâm thời và cần năm năm thử nghiệm trước khi quốc hội
thông qua lần nữa. Và năm năm sau đó, quốc hội Nam Phi đã đồng ý mẫu cờ
do Frederick Brownell vẽ là quốc kỳ Cộng Hòa Nam Phi như đang bay hôm
nay.
Ngày 26 tháng 4 1993 là một ngày đáng nhớ trong lịch sử Nam Phi vì hôm
đó nhân dân Nam Phi tham dự tổng tuyển cử để chọn đảng lãnh đạo, thực tế
là chọn tổng thống. Đối với đại đa số cử tri da đen, đây là lần đầu
tiên trong đời họ được cầm lá phiếu trong tay. Cuộc bỏ phiếu diễn ra
suốt 4 ngày và trong không khí tương đối êm đẹp.
ANC nhận được 62. 3 tổng số phiếu bầu, cao hơn mức đa số quy định và
Nelson Mandela trở thành tổng thống da đen đầu tiên. Buổi tối ngày 2
tháng Năm 1994, Tổng thống de Klerk đọc diễn văn công nhận thất bại. Chế
độ phân biệt chủng tộc Nam Phi chính thức cáo chung.
Tổng thống Nelson Mandela, ngoài trừ việc thích thay đồ nhiều lần trong
ngày, sống một cuộc sống rất đạm bạc. Như đối thủ de Klerk nhắc lại “Mandela có một khả năng đặc biệt. Ông làm mọi người ông tiếp xúc cảm thấy rất thân tình”.
Thật vậy, mỗi lần đi xa về, Mandela không quên ra bắt tay thăm hỏi mọi
người trong dinh tổng thống, từ các phụ tá, cận vệ cho đến các bác làm
vườn. Khi đi kinh lý bằng trực thăng, Mandela thường ngồi gần phi công
để bắt chuyện gia đình, đời sống và lương bổng. Ở tù quá lâu nên nhiều
khi hành vi của Nelson Mandela chẳng khác gì còn đang ở trung tù. Một
bạn tù của Mandela thú nhận “thật khó để lấy Robben ra khỏi tâm hồn họ”.
Ông dành một phần ba số lương tổng thống hàng năm cho quỹ từ thiện
Nelson Mandela Children's Fund do chính ông sáng lập vào năm 1995. Là
con người, ai không cảm thấy sung sướng khi được tôn vinh, ca ngợi,
Nelson Mandela cũng vậy nhưng ông không bị chói mắt bởi hào quang danh
vọng và quyền lực. Ông tiếp đón những nông dân và công nhân nghèo không
khác gì khi tiếp đón các chủ tịch công ty lớn. Thỉnh thoảng Mandela vẫn
về quê tham dự phiên họp của bộ lạc ông. Một lần đoàn làm phim Anh đến
quay phim, Tổng thống Nelson Mandela làm hư cả đoạn phim vì trong lúc
đang phỏng vấn nửa chừng ông sực nhớ quên bắt tay người quay phim nên
bước xuống bắt tay anh ta. Khi Tổng thống Mandela đi công vụ, ngoài đoàn
tùy tùng, dĩ nhiên có rất nhiều phóng viên truyền hình đi theo, khi
nhìn các phóng viên mang máy quay phim với chân cẳng nặng nề, ông thường
dừng lại để chờ.
Sau khi chính thức ly dị với bà Winnie Mandela, Nelson Mandela quan hệ
tình cảm với bà Graça Machel, nhà hoạt động chính trị Mozambique, góa
phụ của cố Tổng thống Mozambique Samora Machel và trẻ hơn Mandela 27
tuổi. Bà Graça Machel là người phụ nữ Phi Châu đầu tiên làm vợ của hai
tổng thống châu Phi.
Thái độ hòa giải của Nelson Mandela thể hiện ở những việc nhỏ như đã
không vội vã đổi ngay tên đường từ các tổng thống, tướng lãnh từng là
hung thần của chế độ phân biệt chủng tộc như Botha hay Malan sang tên
của các anh hùng trong chiến tranh giành độc lập của Nam Phi. Ông muốn
sự thay đổi diễn ra trong tuần tự, bình thường và ổn định tinh thần dân
chúng. Trong mọi buổi nói chuyện, Nelson Mandela nhấn mạnh đến ba nguyên
tắc ảnh hưởng cả đời ông gồm hòa giải, nhân cách và tình thương.
Tinh thần hòa giải của Mandela thể hiện ngay trong thành phần lãnh đạo
quốc gia. Ngoài việc ông là tổng thống, chức vụ Phụ tá Tổng thống Thứ
nhất được trao cho cựu Tổng thống de Klerk và lãnh tụ ANC Thabo Mbeki
được mời giữ chức Phụ tá Tổng thống Thứ hai. Nội các Đoàn kết Quốc gia
của Tổng thống Nelson Madela bao gồm nhiều thành phần, sắc tộc. Ngoài
Phụ tá Thứ nhất de Klerk, các chuyên viên da trắng nắm giữ các bộ quan
trọng gồm cả bộ Nội vụ. Không ít viên chức chính phủ là những người bàn
tay chưa khô máu da đen nhưng Nelson Mandela làm hòa với họ để họ cảm
thấy thật sự là thành viên của một đại gia đình Nam Phi mới như khi ông
ta phát biểu về khái niệm Quốc gia Cầu Vồng (Rainbow Nation) “Nam Phi là
một gia cầu vồng, hòa bình với chính mình và với thế giới”.
Nelson Madela cũng tế nhị ngay cả trong việc chọn nơi làm dinh tổng
thống bằng cách để de Klerk ở lại tư dinh tổng thống tại Groote Schuur
trước đây còn ông dời sang một khu nhà khác ở Cape Town và đặt tên cho
căn nhà mới là Thung Lũng Khoan Dung. Ông quan tâm đến việc chuyển tiếp
quyền lực một cách ổn định đến nỗi bà Winnie, vợ cũ của ông, công khai
phê bình Mandela quan tâm đến dân da trắng nhiều hơn dân da đen Nam Phi.
Nelson Mandela tổ chức buổi gặp gỡ của những góa phụ có chồng bị giết
trong cuộc phân tranh chủng tộc của cả hai bên để họ cảm thông nhau.
Tháng 8 1995, Mandela đến viếng thăm góa phụ của cố tổng thống Nam Phi
Dr. Hendrik Verwoerd, người được xem là kiến trúc sư của chế độ phân
biệt chủng tộc Nam Phi vô cùng tàn ác mà Mandela đã trực tiếp đương đầu
trong giai đoạn 1960. Ba tháng sau đó, Nelson Mandela mời ông Percy
Yutar, 84 tuổi, nguyên là biện lý chính phủ tại phiên tòa Rivonia đã xử
Mandela chung thân, đi ăn trưa. Mandela còn đi xa hơn khi cử cựu giám
đốc nhà tù Robben làm đại sứ Nam Phi tại Áo. Nhiều bạn tù lên tiếng phản
đối nhưng Mandela trả lời “Người can đảm không ngại tha thứ vì mục đích hòa bình”.
Nhưng tha thứ không đồng nghĩa với lãng quên. Mandela và ANC đơn giản
không thể tha thứ cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và xếp tất cả tội ác
của chúng vào ngăn kéo lịch sử. Sự thật cần phải được kể lại. Tháng
Giêng 1996, Ủy ban Sự thật và Hòa giải (TRC) ra đời và Mandela đề cử
Giám mục Anh giáo Desmond Tutu làm chủ tịch. Lễ khai mạc TRC được tổ
chức nhà thờ Anh giáo. Bộ trưởng Tư pháp Nam Phi nhấn mạnh trong diễn
văn khai mạc “Tôi mời quý vị cùng chúng tôi tìm hiểu sự thật, bởi vì
không có sự thật, sẽ không có hòa giải thật sự”. Các đại diện tôn giáo
trong đó có cả đạo Do Thái và Phật giáo được mời lên đọc lời cầu nguyện
và chúc lành cho TRC thành công.
Thật ra, không phải đợi đến 1996 mới có TRC mà ngay trong thời gian đàm
phán giữa Mandela và de Klerk vấn đề hòa giải đã được đưa ra. Cựu Tổng
thống de Klerk đòi hỏi, dù bên nào thắng trong cuộc tổng tuyển cử, một
cuộc đại ân xá cũng phải được thực hiện. ANC không thể để chế độ phân
biệt chủng tộc tự ân xá một cách dễ dàng. Cuối cùng hai bên đồng ý, sự
ân xá đặt trên cơ sở cá nhân nếu đương sự trình bày hết sự thật và có
thể chứng minh hành động của họ do các mục tiêu chính trị thúc đẩy chứ
không phải hận thù cá nhân. Những tướng lãnh hay chính trị gia từ chối
cung khai có thể bị truy tố theo thủ tục hình sự như trường hợp của cựu
Bộ trưởng Quốc phòng Magnus Malan. Đa số tướng lãnh và các bộ trưởng
trong nội các đều quy trách nhiệm cuối cùng lên cựu Tổng thống de Klerk.
Đến phiên de Klerk, ông thay mặt chế độ thừa nhận sai lầm nhưng lại từ
chối việc chính phủ chủ trương tra tấn, ám sát, hiếp dâm và các hành
động tương tự. Tuy cho cách “một lần kể lại để rồi thôi” là quá rộng
lượng nhưng ANC không muốn tạo ra các thánh tử đạo cho cánh cực hữu đang
còn khá mạnh nếu tổ chức phiên tòa xử tội phạm chiến tranh theo kiểu
Nuremberg.
Nhân loại từng lên án chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi, các cơ quan
truyền thông quốc tế đã làm nhiều phim tài liệu về sự chịu đựng của
người da đen tại Nam Phi nhưng không ai, kể cả Nelson Mandela có thể
hình dung ra tội ác trầm trọng đến mức nào cho đến khi chính kẻ gây ra
tội ác cung khai và nạn nhân chịu đựng kể lại. Vô cùng khủng khiếp.
Những chiến dịch “giới hạn”, “trung lập hóa”, “loại khỏi xã hội” là tên
gọi khác của việc chặt nhỏ thân thể nạn nhân hay đốt thành tro các xác
chết. Cựu Tổng thống Pieter Willem Botha từ chối ra cung khai mặc dù
Nelson Mandela hứa sẽ tháp tùng ông ta ra trước ủy ban. Tội ác không chỉ
gây ra từ phía chính phủ da trắng mà cả ANC cũng là thủ phạm của những
vụ tàn sát như đã từng xử tử một loạt 22 người vì tội phản bội. Chủ tịch
ANC Thabo Mbeki phản bác những tội lỗi do ANC gây ra nhưng chính
Mandela không đồng ý và cho rằng ANC cũng đã phải chịu trách nhiệm một
phần. Sau hai năm lắng nghe trong nỗi đau nhức chung của đất nước, TRC
hoàn thành nhiệm vụ, một tổng kết dày năm chương được công bố.
Dĩ nhiên Nelson Mandela không phải là thánh. Ông có nhiều khuyết điểm về
cá nhân cũng như về các chính sách đối nội và đối ngoại trong nhiệm kỳ
duy nhất làm tổng thống. Tổng thống Nelson Mandela không theo đuổi một
chính sách đối ngoại phù hợp với quan điểm hòa bình, công lý như ông
từng nhấn mạnh. Tình cảm “chống chủ nghĩa đế quốc” khi hoạt động trong
ANC bên cạnh đảng Cộng Sản Nam Phi trong thập niên 1950, 1960 còn rất
sâu đậm trong ý thức của Mandela. Ông thường lớn tiếng phê bình các yếu
tố tiêu cực trong các xã hội dân chủ tây phương nhưng lại im lặng trước
sự chà đạp nhân quyền của những tên độc tài bị nhân loại rẻ khinh như
Fidel Castro, Muammar Gaddafi, Saddam Hussein. Lý do vì những tên độc
tài này tích cực ủng hộ ANC về mọi mặt trong khi các quốc gia dân chủ
cũng lên án chủ nghĩa phân biệt chủng tộc nhưng lại không ủng hộ tranh
đấu võ trang. Nelson Mandela đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc
tại Nam Phi nhưng làm ngơ trước chính sách diệt chủng của Suharto tại
Nam Dương đối với thiểu số Đông Timor. Thậm chí, kiểu áo Batik mà
Mandela ưa thích và thường mặc trong các dịp lễ và các buổi tiếp tân
quốc tế cũng do Suharto tặng. Trong thời gian Nelson Mandela làm tổng
thống 11. 7 phần trăm thanh niên Nam Phi bị mắc bị HIV/AIDS nhưng ông
không có biện pháp nào hữu hiệu để ngăn chận mãi cho đến khi chính con
trai ông ta chết vì bịnh AIDS năm 2005 ông mới nhiệt tình ủng hộ các
chiến dịch ngăn ngừa AIDS.
Dù sao, với chỉ một nhiệm kỳ tổng thống trong đó dành phần lớn thời gian
để hòa giải và ổn định đất nước thật khó có thể ưu tiên hóa mọi kế
hoạch. Khi nhận chức tổng thống, Nelson Mandela thừa hưởng một đất nước
phân cực đen trắng trầm trọng. Trong tổng số dân số 40 triệu, 23 triệu
sống không có điện nước và hệ thống vệ sinh, 2 triệu trẻ em không có
trường học và một phần ba dân số không biết chữ. Tỉ lệ thất nghiệp lên
đến 33%. Năm 1994, chính phủ Mandela công bố chính sách y tế miễn phí
cho trẻ em dưới 6 tuổi và phụ nữ có thai. Vào năm 1999, ANC thông báo 3
triệu người đã có đường dây điện thoại, 1. 5 triệu trẻ em có trường học,
500 bịnh viện được xây. Đạo luật cải cách ruộng đất 1994 cho phép người
dân đòi lại quyền sở hữu đất đai bị tước đoạt dưới thời phân biệt chủng
tộc. Từ ngay giai đoạn đầu của nhiệm kỳ tổng thống, Nelson Mandela đã
chuẩn bị cho giai đoạn sau Mandela, một sự kiện hiếm thấy trong chính
trị Phi Châu. Mandela khẳng định dù dân chúng có đòi hỏi, ông cũng sẽ
không tái cử.
Như bà Graça, hiện nay là vợ của Nelson Madela, kết luận dựa theo kinh
nghiệm của bà tại Mozambique, không có Nelson Mandela, Nam Phi đã là một
hỏa diệm sơn. Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-moon phát biểu “Nelson
Mandela là biểu hiện sống của giá trị cao cả nhất của Liên hiệp quốc.
Qua những năm trong tù ông đã duy trì được niềm tin kiên định vào công
lý và bình đẳng. Sau khi được tự do, ông đã hòa giải trước hết với những
người đã truy tố ông, và dẫn đường hướng đến một Nam Phi đa chủng, dân
chủ”. Đại hội đồng Liên hiệp quốc biểu quyết chọn ngày 18 tháng Bảy, sinh nhật ông làm Ngày Quốc Tế Nelson Mandela.
Giữa một xã hội đầy những hố sâu ngăn cách, mục tiêu hòa giải mà Mandela
chủ trương và thành công như nhân loại biết hôm nay không phải là con
đường tráng nhựa rộng thênh thang nhưng đã trải qua nhiều khó khăn,
chướng ngại đến nỗi đã phải bị gián đoạn nhiều lần. Chữa một vết thương
trên da thịt đã khó nói chi chữa lành một căn bịnh tinh thần thấm sâu
vào trong máu hơn nửa thế kỷ, như trường hợp của Nelson Mandela, hẳn còn
khó hơn nhiều. Nelson Mandela chịu đựng cả hai, thân thể và tinh thần,
nhưng ông đã tự chữa lành bịnh của mình và dùng phương thuốc bao dung
như hành trang lên đường chữa trị căn bịnh của đất nước ông. Tiến trình
hòa giải đầy thử thách đó bắt đầu từ chính Nelson Mandela.
Người kêu gọi hòa giải trước hết phải hòa giải được với chính mình, nếu
không, đó chỉ là khẩu hiệu tuyên truyền chính trị được dùng để lừa gạt
người khác.
Nelson Mandela đã hòa giải được với một Nelson Mandela trong lòng chất
chứa hận thù chủng tộc, với một Nelson Mandela từng chủ trương khởi
nghĩa võ trang như con đường duy nhất để xóa bỏ ách thống trị của thiểu
số da trắng, với một Nelson Mandela 27 năm sống trong xà lim chật hẹp
đầy bóng tối, với một Nelson Mandela đang bị vi trùng lao đục phá hai lá
phổi, với một Nelson Mandela thân cộng sản, trước khi hòa giải cả đất
nước Nam Phi.
Một đức tính của Mandela có lẽ sẽ mãi mãi gắn liền với lịch sử nhân loại
là đức tính khoan dung. Khi còn trẻ Mandela là một thanh niên rất hiếu
động đã từng là võ sĩ quyền Anh, luôn phát biểu với giọng sách động
nhưng những suy nghiệm trong 27 năm tù đã làm ông thay đổi. Nelson
Mandela là người sáng lập quốc gia Nam Phi dân chủ, giống như George
Washington của Mỹ, Giuseppe Garibaldi của Ý hay Símon Bolívar của châu
Mỹ La Tinh, nhưng khác họ, Nelson Mandela đạt đến dân chủ không bằng
những cuộc chiến tranh đẫm máu.
Các cựu tù nhân khi nắm được quyền lực thường đi tìm những kẻ đã từng
hại mình, Mandela cũng đi tìm nhưng khác ở điểm không phải để kể tội,
trả thù mà để tha thứ.
Cuộc đời rất mong manh và ngắn ngũi, những ai đang sống hôm nay, dù
quyền uy hay hèn yếu, dù giàu sang hay nghèo khó, rồi sẽ chết nhưng đất
nước sẽ phải còn và mãi mãi còn cho các thế hệ mai sau. Nelson Mandela,
vì thế, mãi mãi là ngọn hải đăng của lương tri nhân loại và tấm gương
sáng cho lãnh đạo các quốc gia đang chìm đắm trong hận thù phân hóa để
mưu cầu một nền hòa bình thịnh vượng lâu dài cho đất nước.
(Nhân dịp mừng sinh nhật Nelson Mandela 18 tháng Bảy)
Đã đăng: - “Bước đường dài đến tự do” của Nelson Mandela
Đã đăng: - “Bước đường dài đến tự do” của Nelson Mandela
___________________________________
Tham khảo:
- Nelson Mandela, Long walk to freedom, Little, Brown and Company, NY 1994, 1995
- Martin Meredith, The Fate of Africa, Public Affairs 2005
- Anthony Sampson, Mandela the authorized Biography, Vintage Books 2000
- Tom Lodge, Mandela a critical life, Oxford 2006
- Peter Limb, Nelson Mandela A Biography, Greenwood Press, Westport, Connecticut 2008
- UN, Nelson Mandela on His Word, United Nations Department of Public Information, June 2010
17/7/2013
No comments:
Post a Comment