Tìm hiểu một tu viện bị chiếm đoạt ở Đà Lạt
Đăng bởi lúc 1:24 Sáng 16/07/13
VRNs (16.07.2013)
– Lâm Đồng – Học viện Dòng Chúa Cứu Thế Đà Lạt, nơi đào tạo các linh
mục, tu sĩ đã bị nhà cầm quyền chiếm giữ. Đến bao giờ nhà nước sẽ trả
lại cho phù hợp với chính sách tự do tôn giáo?
Vào những
ngày đầu tháng 7 năm 2013, chúng tôi may mắn được tham dự một lớp huấn
luyện kỹ năng viết tin phóng sự. Địa điểm học là Tùng Lâm, thành phố Đà
Lạt mộng mơ. Nhân dịp này, chúng tôi được cha Antôn Lê Ngọc Thanh DCCT,
người hướng dẫn chúng tôi trong những ngày luyện tập kỹ năng này, đã đưa
chúng tôi đến thăm lại Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế, mà nay đã bị nhà cầm
quyền chiếm đoạt để biến thành một địa điểm du lịch và bán tạp hóa cùng
cây cảnh.
Con đường
từ nhà thờ Tùng Lâm lên Học viện chừng 500 – 600 mét với những đồi thông
thẳng đứng chạy dọc hai bên. Con đường này đã đi vào ký ước của những
người sống ở đây vào những thập niên 50 – 70. Khi chiều dần xuống là lúc
những tu sĩ DCCT mặc tu phục đem tay cầm tràng hạt đi lại trên con
đường này để cầu kinh lẫn chuỗi Mai khôi.
Chúng tôi
đang hồ hởi tiến về Học Viện như đang đi về chính nhà mình vậy. Có cái
gì thân thương đến lạ! Cha Antôn chỉ vào một tòa nhà to và đẹp, nói với
chúng tôi “Đây là Viện sinh học mới được nhà nước xây dựng trái phép trên diện tích đất Nhà Dòng”. Có người trong đoàn chúng tôi tiếp lời “chính
quyền này là chính quyền ăn cướp mà. Họ đã vào nhà đuổi chủ ra và sở
hữu luôn, vì đây là rừng thông nên họ dùng luật rừng luôn ấy mà”.
Vừa đến cổng Học viện, một anh bảo vệ nói chúng tôi phải mua vé vào thăm quan. Cha Antôn nói: “chúng tôi vào nhà của chúng tôi sao lại phải mua vé” và anh ta không cho vô. Cha liền lấy máy điện thoại gọi cho cha xứ Tùng Lâm. Cha nói với cha xứ Tùng Lâm “Cha ơi! Con vào nhà mình mà anh bảo vệ này không cho vô”
rồi anh ta nói phải có quyết định của bà giám đốc mới được vào. Sau một
hồi anh ta suy nghĩ và nói thôi các anh cứ đi đi thế là chúng tôi tiếp
tục đi.
Tôi được
biết mọi thứ hầu như vẫn còn nguyên vẹn không bị thay đổi, những cột
tường bằng đá, những hàng cây xếp thẳng đứng và nghiêm trang ở nơi này
đã 40 – 50 năm qua. Khi tiến vào tới gần hơn, chúng tôi bị ngạc nhiên
trước một tòa nhà to, cao, đứng sừng sững, hiên ngang trên ngọn đồi, bốn
phía là những hàng thông đang du dương trong gió như những cánh tay vẫy
gọi chúng tôi bước nhanh hơn, gần hơn về nhà mình.
Qua lời
hướng dẫn của cha Antôn, chúng tôi đi một vòng trước toà nhà để quan sát
mặt tiền của ngôi nhà. Rồi chúng tôi tiến lại gần cửa chính của ngôi
nhà. Một bảng bằng đá được khắc bằng chữ Latinh ghi ngày khánh thành của
ngôi nhà. Cửa chính của ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn, ổ khóa vẫn dùng “La partout – mọi nơi”, một loại ổ khóa được dùng cho DCCT toàn thế giới.
Học viện
được khởi công xây dựng vào năm 1949 và được hoàn thành vào năm 1952.
Đây là công trình được thiết kế theo lối kiến trúc mới, với kiểu cách bố
trí ấm cúng và trang nghiêm theo cấu trúc của các tu viện Châu Âu. Nằm
cao trên ngọn đồi thông phía Bắc của TP. Đà Lạt. Tòa nhà được xây dựng
bằng đá có nhiều cửa sổ, đứng vững vàng trong không gian tĩnh lặng. Bước
vào bên trong, ngay chính giữa tòa nhà là một cây Thánh giá với hai
dòng chữ bằng tiếng la tinh, khẩu hiệu (slogan) của Dòng Chúa Cứu Thế “Copiosa Apud Eum Redemptio”, có nghĩa là “Ơn cứu độ chứa chan nơi Người”.
Từ phía sau tu viện, chúng tôi có thể nhìn bao quát TP. Đà lạt. Đây là
công trình bằng đá kiên cố thứ hai tại Việt Nam, sau nhà thờ đá Phát
Diệm.
Cha Antôn
đưa chúng tôi đi thăm từng lầu một, các phòng ốc ở đây gần như còn
nguyên vẹn và không bị thay đổi nhiều, ngoại trừ một số phòng lớn được
dùng làm phòng trưng bày các con thú và có cả thú nhồi bông. Tới hành
lang của lầu 2 chúng tôi thấy một bảng thông tin bằng gỗ, là bảng để ghi
lịch dâng lễ và dạy học của các cha và các giáo sư. Các phòng ở đây đều
đóng kín, không sử dụng. Đây là phòng ở của các cha các thầy ngày xưa.
Vào nhưng
năm 1949 và năm 1950, cha Alphonse Tremblay, Bề trên Giám phụ tỉnh, đã
di chuyển Học viện Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam vào Ðà Lạt, tiếp tục đường
lối đào tạo đã được thực hiện tại Học viện Thái Hà Ấp, đào tạo các linh
mục, tu sĩ cho Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam và cho Giáo hội Việt Nam. Các
sinh viên Học Viện đã trực tiếp góp tay xây dựng toà nhà đồ sộ và khang
trang này.
Tại Học
viện Thái Hà ấp, các Đức cố hồng y Phaolô Maria Phạm Đình Tụng và Đức
giám mục Đa Minh Nguyễn Văn Lãng đã được đào tạo để trở thành linh mục.
Trước khi
bị chiếm đất, Học Viện Ðà Lạt đã trải qua hơn một thập niên bình an, ổn
định với nhiều hoạt động mạnh mẽ. Điểm đặc biệt nổi bật trong lịch sử
Học Viện Ðà Lạt trước Công Ðồng Vatican II là việc trao các trách nhiệm
quan trọng trong việc lãnh đạo đào tạo tại Học Viện cho các linh mục
người Việt Nam đảm trách. Cha Stêphanô Nguyễn Tín (cha Chân Tín) là linh
mục người Việt Nam đầu tiên lãnh trách nhiệm Giám Ðốc Học Viện (năm
1956). Ngài cũng là tín sĩ thần học tín lý, giáo sư trực tiếp tại Học
Viện. Ban giáo sư người Việt gồm Cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn, cử nhân
Thánh Kinh, cha Inhaxiô Bùi Quang Diệm, tiến sĩ triết học, cha Henry
Bạch Văn Lộc, tiến sĩ Giáo luật, cha Phaolô Nguyễn Ngọc Lan, tiến sĩ
triết …
Từ năm
1963 đến năm 1965, biến cố quan trọng nhất trong lịch sử Giáo Hội trong
thế kỷ 20 là diễn ra Công Ðồng Vatican II. Biến cố này ảnh hưởng trực
tiếp và sâu rộng đến nội dung, phương pháp và tiến trình đào tạo tại
Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế Ðà Lạt.
Tại Học
Viện này, các linh mục và tu sĩ DCCT có những đóng góp đặc biệt quan
trọng trong nghiên cứu cũng dịch thuật Thánh Kinh và các bản văn phụng
vụ của Giáo hội. Bộ Kinh Thánh Cựu – Tân Ứớc đã được cha Gérard Gagnon
(tên việt Nam là cha Nhân) dịch ra tiếng Việt và phổ biến rộng rãi cho
các tín hữu. Có thể nói, cha Nhân là một trong những người đầu tiên hoàn
tất công việc chuyển ngữ trọn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt, tuy chưa
phải là bản chuyển ngữ từ nguyên ngữ gốc.
Năm 1965,
cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn đã cho ra đời bộ kinh Thánh Tân Ước do ngài
dịch và giới thiệu. Cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn là người đầu tiên tại
Việt Nam dịch Kinh Thánh từ nguyên ngữ Hipri và Hy Lạp ra Việt ngữ, đồng
thời cũng là một trong những người đầu tiên áp dụng khám phá mới của
khoa chú giải hiện đại vào việc giải thích Kinh Thánh. Phần “giới thiệu”
đầu bộ Tân Ước không chỉ là giới thiệu nội dung quyển sách, mà thật ra
là một tác phẩm thần học Thánh Kinh, dẫn người đọc vào Tân Ước nhờ khám
phá kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong Cựu Ước và trong các nền văn
hóa đồng thời với Cựu Ước.
Năm 1975,
cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn bị cộng sản sát hại trong rừng Di Linh, Lâm
Đồng. Sau đó, các giáo sư và các học trò của ngài đã thu thập tất cả các
bản dịch Cựu Ước của ngài lại, và dịch bổ sung một vài sách thuộc đệ
nhị Quy điển, mà cha Thuấn chưa dịch, rồi xuất bản với số lượng 30.000
bản.
Bộ Kinh
Thánh Tân-Cựu Ước do cha Giuse Nguễn Thế Thuấn dịch đã được mọi thành
phần dân Chúa tại Việt Nam đón nhận. Ngày nay, sau 38 năm xuất bản, mặc
dầu đã xuất hiện nhiều bản dịch mới, nhưng bản dịch Kinh Thánh của cha
Thuấn vẫn được yêu mến và đánh giá cao trong Giáo Hội Việt Nam, nhất là
đối với những người nghiên cứu Thánh Kinh.
Cũng tại nơi đây nhóm nhạc Alleluia thuộc Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế ra đời trong khoảng giữa thập niên 1960.
Tất cả
những bài ca vào đời đều do các thầy Học Viện lúc đó sáng tác với nguồn
cảm hứng từ Kinh Thánh, Thánh vịnh và cảm hứng từ một số bản nhạc vào
đời của nhóm Alléluia Dòng Chúa Cứu Thế Canada. Trong số đó phải kể
những gương mặt sáng còn lại trong Dòng và hiện đang là các linh mục
Phêrô Nguyễn Thành Tâm, Giuse Trần Sĩ Tín, Phêrô Nguyễn Đức Mầu (biệt
hiệu Hoàng Đức), Matthêu Vũ Khởi Phụng, Giuse Tiến Lộc, …v.v…
Nhóm
Alléluia đã giới thiệu một khuôn mặt mới của Giáo hội với dân Chúa, nhất
là với giới trẻ. Lần đầu tiên dân Chúa ở vùng Đà Lạt chứng kiến các
linh mục ôm đàn guitar hát, đánh trống, thổi kèn biểu diễn cho họ xem.
Các tu sĩ trở thành người phục vụ cho dân. Nhóm đã gây được ảnh hưởng
rất lớn trong thời kỳ đó. Tuy thành công nhiều, nhưng cũng chịu nhiều
thành kiến. Thành ngữ “cấp tiến” được gán cho DCCT bắt đầu từ thời kỳ
này. Những bản Vào Đời của nhóm Alléluia đến nay vẫn được yêu mến: Vào
Đời, Xuất Hành, Trên Đường Emmaus, Alléluia Hát Lên Người Ơi!, Quê Hương
Thượng Đế …
Ðầu năm
1971, thời cha Henri Bạch Văn Lộc làm Bề trên giám tỉnh, Học viện Dòng
Chúa Cứu Thế Việt Nam được dời về Thủ Ðức, gần trung tâm văn hóa, để dễ
tìm các giáo sư, dễ tiếp xúc, và giao lưu tốt hơn.
Sau biến
cố 1975, Học Viện DCCT bị nhà cầm quyến chiếm giữ. Đến ngày 05.09.1978,
tu viện biến thành Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Đà Lạt (nay là Bảo tàng
Sinh học Tây Nguyên).
Theo website của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (www.vast.ac.vn)
thì thành tích nổi bật của Viện sinh học Tây Nguyên này là hàng năm có
trên 50.000 du khách đến tham quan, nếu chia ra cho 365 ngày và 8 giờ
trong một ngày thì mỗi giờ nơi đây chỉ đón tiếp 17 người khác, trong khi
đó, cán bộ nhân viên của Viện bảo tang là 28 người. Số du khách mỗi giờ
ít hơn số người làm ở đây. Còn các công trình khoa học thì cũng chỉ là
“hàng năm thực hiện từ 8 đến 10 đề tài nghiên cứu các cấp, sản xuất và
cung cấp cây giống cho địa phương trên 20.000 cây giống rau, hoa các
loại” với 6 tiến sĩ, 15 thạc sĩ, 13 cử nhân và 13 người khác. Hoạt động
du lịch không hiệu quả, mà nghiên cứu cũng chẳng đến đâu.
Sau nhiều
năm bị sử dụng sai mục đích và không trùng tu đúng tiêu chuẩn xây dựng,
Học viện Dòng Chúa Cứu Thế Đà Lạt phần nào đã bị hư hại. Một phần của tu
viện được dùng để làm nhà ở và nấu ăn của các nhân viên bán hàng lưu
niệm và cây cảnh tại đây.
Chúng tôi
có thể thấy tổng thể công trình chưa hề bị thay đổi gì. Cũng phải kể đến
phần đóng góp lớn của vị giám đốc đầu tiên của Viện Sinh Học là tiến sĩ
Nguyễn Xuân Tụ – Hà Sĩ Phu. Sau 1978, với tinh thần tôn trọng tôn giáo,
tôn trọng niềm tin, tôn trọng công trình của niềm tin, tôn trọng khoa
học lịch sử, tôn trọng sự thật, vị giám đốc đầu tiên và người thân của
ông đã phải chịu rất nhiều khốn khó, tù đầy.
Trong số
những người bị giáo điều điều khiển và bị mê hoặc vẫn có những người họ
luôn làm theo lương tâm, theo đạo đức họ. Người ta nhìn về họ như những
ngôi sao của ý thức hệ, luôn nghĩ về quê hương đất nước về niềm tin tôn
giáo.
Không biết
khi nào nơi trưng bày thú nhồi bông và bán đủ thứ tạp hóa này được trả
lại cho không gian linh thánh như nó đã được hình thành và sử dụng ngay
từ ban đầu?
Để kết lại
câu chuyện về chuyến viếng thăm Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Đà Lạt, chúng
tôi muôn gửi tới nhà cầm quyền cộng sản Việt nam: hãy trả lại cho DCCT
những gì thuộc về tài sản của Dòng để tu viện được sử dụng đúng mục
đích. Lý do nào khiến quý vị cướp chỗ đào tạo nên những con người có ích
cho dân tộc và cho tổ quốc như vậy? Phải chăng là chính sách tiêu diệt
tôn giáo đến mãi hôm nay vẫn còn?
Manna Khanh
Tòa nhà đá không rêu phong ở Đà Lạt
Đăng bởi lúc 1:18 Sáng 14/07/13
VRNs (14.07.2013)
– Lâm Đồng – “Chào chú, chú làm ơn cho cháu hỏi, tại sao nhà thờ bằng
đá này có thánh giá rất lớn, lại được gọi là Viện Sinh học Tây Nguyên?”
Người tài
xế lắc đầu ngao ngán: “Cháu còn nhỏ tuổi nên chưa biết thôi, Nhà nước
tiếp quản thì phải chịu. Họ lấy của các cha Dòng Chúa Cứu Thế để làm cơ
sở cho họ đó mà, cũng nghe nói là họ sắp trả cho Nhà Dòng rồi, nhưng hứa
vậy thôi. Chú nghĩ vài bữa cũng phải trả cho Nhà Dòng thôi, không sớm
thì muộn…”
Chú tài xế
tên Hồ Văn Sang, trạc năm mươi mấy tuổi, của đoàn du lịch trường CĐ Sư
Phạm Long An chia sẻ chân thành với tôi, chú còn nói: “Cách đây 20 năm,
khi chú đến đây, mảnh đất này đẹp tuyệt vời, bây giờ thì không đẹp bằng
ngày xưa đâu…”
Sáng ngày
09.07.2013, khoảng 10h, nhóm tập huấn truyền thông chúng tôi đã đến Học
Viện DCCT Đà Lạt. Cùng với linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, chúng tôi đi
thăm lại Ngôi nhà thân quen của DCCT, nay gọi là Viện sinh học Tây
Nguyên. Những cơn gió mát lạnh thổi qua cánh rừng thông bạt ngàn làm se
lòng của mọi thành viên trong nhóm. Không gian rộng lớn nhưng gần gũi,
dù từ xa đến, nhưng chúng tôi lại cảm thấy rất thân quen, cứ như gặp lại
một người thân trong gia đình.
Men theo
con đường khoảng 500m uốn quanh cánh rừng thông, trước mặt tôi là tòa
nhà đá lớn, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy kiến trúc kiên cố, hiền hòa
như thế này. Đường dẫn từ đường chính vào tu viện dài hơn 500m tiếp cận
một sân rộng rãi và bằng phẳng, có tầm nhìn thoáng đảng. Công trình theo
kiểu kiến trúc mới, mang bố cục hình khối đối xứng, cao 4 tầng với môt
tầng hầm ở về phía sườn đồi thấp. Mặt ngoài, phần lớn được xây ốp đá
kiểu, tạo cảm giác rất vững chắc và bề thế. Lối vào chính nằm giữa trục
chính của toà nhà, được nhấn mạnh bằng khối mái đón vươn hẳn ra ngoài,
được đỡ bằng 2 trụ xây đá kiểu vừa to vừa mạnh mẽ. Nổi cao lên ở mặt
tiền có cây thánh giá và dòng chữ tiếng La Tinh: “COPIOSA APUD EUM
REDEMPTIO”, có nghĩa là ”Ơn cứu độ chan chứa nơi Người”.
Nhà cầm
quyền đã cố ý biến khu nhà này thành nơi phục vụ cho khoa học, nhưng tôi
vẫn thấy sự linh thánh hiện diện ở đây. Sự linh thánh ấy hiện diện
trong từng viên đá, từng bậc thang, trên từng mảng tường, khung cửa sổ.
Dường như, thời gian các Tu sĩ DCCT sống trong tu viện đã biến từng thụ
tạo trong tòa nhà này thành những vật được thánh hiến cho chính Thiên
Chúa. Cho dù nó có rơi vào tay ai sở hữu, cũng không mất đi sự linh
thánh thiêng liêng đó.
Cha An
Thanh cho biết Học Viện này được các Cha DCCT người Canada và các tu sĩ
người Việt Nam xây dựng trong vòng gần 4 năm 1949-1952. Đúng ngày
16.07.1952 thì khánh thành, 20.07.1952 chính thức khai giảng năm học đầu
tiên tại Đà Lạt. Sau năm 1975, Học Viện DCCT Đà Lạt bị Nhà nước chiếm
dụng, cùng chung số phận với hàng loạt các cơ sở tôn giáo khác.
Cha Thanh
và chúng tôi đi xung quanh khu vực triển lãm. Viện sinh học này chỉ sử
dụng một tầng trệt để trưng bày những chú thú nhồi bông cao cấp (thiệt
ra là bộ lông, da các con thú, các tranh vẽ được tái hiện lại, trong
giống như một vườn cổ tích cho các bé hơn là dành cho học tập và nghiên
cứu khoa học). Giang đại sảnh, họ đặt 2 vệ tinh thời thập niên 60-70 của
Liên Xô cũ, điều đó đâu cần thiết cho một bảo tàng sinh học. Hay là họ
muốn lấp đầy các chỗ trống trải…
Chúng tôi
xem mình vào nhà của mình. Anh em chúng tôi bước lên trên 2 tầng lầu
trên, cảnh vật vẫn còn nguyên vẹn. Tầng đầu tiên dành cho các thầy học
Triết học, tầng thứ hai dành cho c1c thầy Thần Học. Ở hai đầu là phòng
đọc sách, phòng sinh hoạt chung, và phòng của cha Giuse Nguyễn Thế
Thuấn, giáo sư Thánh Kinh, và là người đầu tiên ở Việt Nam dịch Thánh
Kinh từ nguyên ngữ ra tiếng Việt. Trừ tầng triễn lãm, mọi phòng đều khóa
chặt, đã lâu không sử dụng vào bất cứ việc gì. Chúng tôi vào được một
phòng riêng của các thầy, mà bây giờ đang bỏ không. Theo cha Thanh, căn
phòng ngày xưa được bố trí giản đơn, một chiếc bàn quỳ, một kệ đặt bàn
thờ, một chiếc giường nhỏ, một cái bàn đó là tất cả khoảng không gian
tối thiểu của một người tu sĩ cần phải có.
Chị Thảo – hướng dẫn viên của Viện sinh học đã cho chúng tôi biết: “Tòa nhà vẫn được bảo trì, nhưng không được xây dựng mới”.
Chúng tôi
tiến sâu lên các tầng trên cùng, gần mái, nơi ban nhạc Alleluia của cha
Thành Tâm năm xưa đã dung làm nơi tập luyện vào thập niên 60. Tất cả
những bài ca Vào đời đều do các thầy Học Viện lúc đó sáng tác với nguồn
cảm hứng từ Kinh Thánh, Thánh vịnh và cảm hứng từ một số bản nhạc vào
đời của nhóm Alléluia Dòng Chúa Cứu Thế Canada. Nhóm ca vào đời được kết
tụ do một số Thầy Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế có giọng hát tốt, biết
nhạc và biết chơi nhạc, trong số đó phải kể những gương mặt sáng còn lại
trong Dòng và đã trở thành các linh mục: Cha Phêrô Nguyễn Thành Tâm,
Cha Giuse Trần Sĩ Tín, Cha Phêrô Nguyễn Đức Mầu (biệt hiệu Hoàng Đức),
cha Matthêu Vũ Khởi Phụng, Cha Giuse Tiến Lộc, cha Stanislas Lê Vĩnh
Thủy (chơi trống)…
Còn biết
bao nhiêu những thành tựu lớn lao mà các linh mục – tu sĩ DCCT đã thực
hiện trong Học Viện này. Như tuần báo “Hồ sơ X”- do Cha Phaolô Nguyễn
Ngọc Lan chủ biên, gây được những tiếng vang lớn sau biến cố Công đồng
Vantican II. Ngoài ra còn vô số những công trình nghiên cứu triết học và
thần học khác.
Chúng tôi
đi xuống lại tầng trệt, thăm những góc nhà, vẫn còn nguyên các bảng lớn
bằng gỗ ghi tên và các giờ lễ, lịch giảng của các cha.
Bây giờ
nơi đây gọi là Viện bảo tàng sinh học Tây nguyên, vì Viện sinh học Tây
Nguyên mới được xây dựng mới cũng trên đất DCCT Đà Lạt, ngay phía sau
nhà xứ Tùng Lâm và đường vào tu viện cũ. Ngay ở tầng trệt, người ta mở
những gian hàng, bán những thứ hỗn hợp để thu hút khách du lịch, ngoài
hoa tươi và một vài thứ được sản xuất tại Đà Lạt, thì đa số đồ lưu niệm
là hàng được sản xuất từ Trung Quốc. Nhưng dù con người có che giấu cách
mấy, thì cũng không ảnh hưởng đến vẻ uy nghi, thánh liêng của tòa nhà
đá được.
Chúng tôi
đi vòng theo cửa sau để ra khỏi tòa nhà thân thuộc, tôi cứ ngẫm nghĩ
trong lòng. Sau năm 1975, nhà nước vô thần sử dụng hình thức tốt để che
đậy những mục đích xấu. Họ sử dụng chiêu bài chiếm đất tôn giáo để phục
vụ cho khoa học, nhưng thực tế, họ chỉ muốn ngăn chặn sự phát triển và
thăng tiến của tôn giáo. Hiện nay họ chỉ sử dụng một phần của tầng dưới
cùng để làm bảo tàng, các tầng còn lại đều bị bỏ hoang. Đó là chưa kể
đến cả khu rừng phía sau – nơi yên tĩnh để các cha các thầy đã cầu
nguyện, học hành, nghiên cứu. Cả trại gà Scala cũng bị bỏ hoang, khiến
nhiều người lấn chiếm đất. Nghe nói tổng số đất của tu viện DCCT Đà Lạt
này lên tới hơn 36 hecta.
Sau 60 năm
xây dựng, giữa khí hậu Đà Lạt, mà các vách đá của tòa nhà không hề bị
rêu phong. Nhiều người cho rằng đá đã được vận chuyển từ ngoại quốc về
xây nên mới được thế. Thật ra toàn bộ đá đã được đào từ mỏ đá ngay trong
khu vực đất của hơn 30 hecta này.
Tòa nhà đá vẫn sừng sững uy nghi hướng về trời, tôn vinh Thiên Chúa, đợi chờ một ngày CÔNG LÝ được thực hiện.
Kim Ngân
No comments:
Post a Comment