Văn hóa NGHỆ AN
Đinh Hoàng Thắng
Thứ bảy, 18 Tháng 1 2014 09:45
Nay là lúc chúng ta nên tự vấn lương tâm đã làm gì để “đưa
Hoàng Sa gần với đất liền”, để trở thành “công dân danh dự của Hoàng
Sa”. Cả ba lần Trung Quốc đem quân thôn tính Hoàng Sa vào các năm 1909,
1956 và 1974 đều trùng vào thời điểm Việt Nam đối mặt với chiến tranh và
chia cắt. ASEAN, Mỹ, Nhật và nhiều nước khác hiểu rất rõ, Trung Quốc
đâu chỉ bắt nạt một mình Việt Nam.
Trận hải chiến bi hùng xẩy ra cách đây 40 năm nhắn nhủ chúng ta điều gì, nhìn từ hôm nay? Có thể có ba thông điệp. Thông điệp đầu tiên,
đó là lợi ích của quốc gia – dân tộc bao giờ cũng là tối thượng! Một
khi biết đặt chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc lên trên hết, mọi trở
ngại khác đều có thể tìm ra phương hướng giải quyết. Thông điệp thứ hai, lợi
ích quốc gia, quyền lợi dân tộc không phải là điều gì trừu tượng, ngược
lại nó mang nội dung rất cụ thể và sát sườn đối với mọi người Việt yêu
nước. Lợi ích này còn gắn bó chặt chẽ với lợi ích của khu vực và quốc
tế. Thông điệp thứ ba, 40 năm trôi qua, nay là lúc mỗi chúng
ta, nên tự vấn lương tâm, đã làm gì để “đưa Hoàng Sa gần với đất liền”,
để trở thành “công dân danh dự của Hoàng Sa”, làm gì để giành lại Hoàng
Sa và bảo vệ Trường Sa?
Mất Hoàng Sa, không giữ được Trường Sa sẽ mất Biển Đông. Mà mất Biển
Đông là sẽ mất con đường sống, mất một hải lộ giao thương huyết mạch của
quốc gia, của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuyên bố của
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam và tuyên bố của nhiều nước trong
những ngày qua đang cho thấy tính nghiêm trọng của vấn đề. Ở thời khắc
hiện tại, khi chúng ta tưởng niệm ngày quần đảo Hoàng Sa bị chiếm đóng,
dù chỉ rộng có 8 cây số vuông, nhưng những thông điệp từ Hoàng Sa ngày
ấy đã xuyên suốt không gian và thời gian, giờ đây đang trở nên bức bách
và đáng báo động. Trên thực tế, những thông điệp ấy đang vượt ra khỏi
mọi khuôn khổ tưởng niệm hay hội thảo khoa học trong những ngày này. Sau
đây, tôi xin trình bày sâu hơn từng nội dung của mỗi thông điệp:
Tài sản quý nhất
Các chuyên gia sẽ còn mất nhiều thời gian nghiên cứu các sự kiện
19/1/1974 và 14/3/1988 để tiếp tục rút ra bài học cho những người Việt
hôm nay và các thế hệ mai sau. Chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ
không thuộc sở hữu của riêng ai. Đó là tài sản lớn nhất, quý giá và quan
trọng nhất của cả dân tộc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên bế
mạc Hội nghị Trung ương 6 Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 16/10/2012 đã cam
kết: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư là một tập thể lãnh đạo kiên quyết bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia”.
Nhưng chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc không chỉ là vấn đề của lãnh
đạo đất nước, đó còn là vấn đề của toàn dân. Hơn thế nữa, đó từng là
khát vọng ngàn đời của những người con đất Việt từ khắp mọi góc bể chân
trời.
Lấy chủ quyền quốc gia/độc lập dân tộc làm hệ quy chiếu sẽ thêm điều
kiện cho khối đoàn kết toàn dân vững mạnh. Bởi vì, cả ba lần Trung Quốc
đem quân thôn tính Hoàng Sa vào các năm 1909, 1956 và 1974 đều trùng vào
thời điểm Việt Nam phải đối mặt với chiến tranh và chia cắt. Do hoàn
cảnh ấy, tiềm lực quốc gia và đồng thuận xã hội bị suy giảm. Nay công
nhận 74 chiến binh Việt Nam CH như đã từng công nhận 64 chiến sĩ hải
quân Việt Nam trong vụ thảm sát Gạc Ma là liệt sĩ, là cắm một cột mốc
quan trọng trên con đường hòa hợp-hòa giải. Thống nhất giang sơn đã khó,
thống nhất lòng người còn khó hơn. Một dân tộc sẽ không thể trưởng
thành nếu lòng dân ly tán. Không có hòa hợp-hòa giải, sẽ không có dân
chủ-pháp quyền. Thiếu dân chủ-pháp quyền sẽ không có phát triển-thịnh
vượng.
Nhìn từ lợi ích quốc gia, chúng ta càng thấm thía hơn bài học cảnh
giác. Trong quan hệ quốc tế, không thể “thật dạ tin người”. Mọi thứ đều
có thể thay đổi, chỉ có bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và thống nhất quốc gia
là không bao giờ thay đổi. Chính sách ngoại giao của ta, được công bố
ngay từ những ngày nền cộng hòa dân chủ còn trong trứng nước, đó là
chính sách ngoại giao có tính dân tộc và dân chủ. Chính sách ấy lấy tư
tưởng Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến” làm điểm xuất phát. Qua
những năm Đổi mới, chính sách ấy nhấn mạnh chủ trương “đa dạng hóa, đa
phương hóa”. Đa phương hóa các quan hệ quốc tế là bất biến, tạo ra và
duy trì thế “cân bằng động” là bất biến để tùy cơ ứng biến với những
điều đang và sẽ thay đổi của các đối tác, trong đó hàng đầu là của các
cường quốc.
Một điều “bất biến” nữa giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng
giềng cùng chung biên giới/biển đảo. Hai nước phải sống chung với nhau
là điều vĩnh viễn và không thay đổi. Tuy nhiên, cuộc sống chung ấy cần
được xây dựng trên sự tôn trọng lẫn nhau về nhiều mặt, đặc biệt là trong
tương quan “bất biến” với chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Không
tỉnh táo nhận thức ra điều này, lệ thuộc vào những yếu tố “vạn biến” như
“mười sáu chữ”, hay “bốn tốt” đều có thể dẫn đến những bước đi sai lầm
mang lại hậu họa khôn lường cho đất nước! Chỉ cần hữu hảo ở mức tối
thiểu với nước ta, thì Trung Quốc đã không thể công bố lệnh cấm đánh cá
trên Biển Đông trong những ngày này khi khắp cả nước ta đang tưởng niệm
40 năm ngày Hoàng Sa bị cưỡng chiếm.
Gắn với dân, khu vực và quốc tế
Lợi ích quốc gia, quyền lợi dân tộc không phải là điều gì trừu tượng,
ngược lại đó là những điều rất cụ thể, rất sát sườn đối với mọi người
Việt Nam. Lợi ích quốc gia – dân tộc gắn với đời sống mưu sinh hàng ngày
của mọi người dân. Đất nước ta ba phần là biển, một phần là đất. Vậy mà
trong số nhiều bộ, nhiều ngành đang quản lý “một phần là đất” kia, vẫn
chưa hề có Bộ Kinh tế Biển. Tưởng niệm 40 năm Hoàng Sa thất thủ là dịp
chúng ta nên ngẫm lại về “tư duy biển”, về “triết lý phát triển biển”.
Tư duy đó, triết lý đó đang phát triển hay tụt hậu? Những ngày Trung
Quốc ban bố lệnh cấm đánh cá trên hầu hết 2/3 diện tích Biển Đông này,
chúng ta yêu cầu gì, nếu như không phải là yêu cầu chính đáng, ngư dân
ta mỗi lần ra khơi đánh bắt xa bờ phải được tự vệ và cần được bảo vệ.
Tình cảm của những ngư dân có cuộc sống cheo leo giữa biển khơi sóng dữ
trong những ngày này không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị
kỷ. Quyền lợi của Việt Nam gắn bó với quyền lợi của cả khu vực và quốc
tế. ASEAN, Mỹ, Nhật và nhiều nước châu Á khác đều hiểu rất rõ: Trung
Quốc đâu chỉ bắt nạt hay bắt bí một mình dân Việt Nam. “Chuông nguyện
hồn ai?” Các nước trong khu vực và trên thế giới nhận thức từ rất sớm,
chuông nguyện chính cả bản thân mình. Đài Loan, Philippines, Mỹ và Nhật
Bản đều đã lên án Trung Quốc. Hy vọng lần lượt sẽ có phản kháng từ các
nước khác. Trung Quốc không thể biến một hải lộ vận tải quốc tế có ý
nghĩa sống còn đối với nhiều nước thành cái ao nhà của mình. “Những kẻ
bắt cóc trên biển” không thể tự tung tự tác, múa gậy vườn hoang như thế.
Chủ nghĩa khu vực “mở” sẽ là nguồn sức mạnh. Các quốc gia trong vùng
không thể “khấu đầu” trước một Trung Quốc hung bạo, hành động trái với
đạo lý và luật pháp quốc tế. Nếu cứ chấp nhận như vậy, sau lệnh cấm đánh
bắt cá và các tàu thuyền lưu thông trên Biển Đông phải xin phép nhà
đương cục Hải Nam thì tới đây, Trung Quốc có thể sẽ thiết lập ADIZ trên
Biển Đông và cứ thế tiếp tục leo thang. Kết quả là DOC bị Trung Quốc chà
đạp, COC sẽ không đi đến kết cục như đa số thành viên ASEAN mong đợi.
Biển Đông sẽ căng thẳng hơn và hỗn loạn. Các nước trong vùng buộc phải
chạy đua vũ trang. Khu vực giống như một thùng thuốc súng. Tình trạng
“bên miệng hố chiến tranh” sẽ lấn át viễn cảnh hòa bình. An ninh và an
toàn hàng hải trên Biển Đông sẽ bị đe dọa từng phần và toàn cục.
Làm gì vì Hoàng Sa và Trường Sa?
Không một quốc gia nào đón đợi viễn cảnh nói trên, trừ những kẻ rắp tâm
gây ra trạng huống ấy. Vì vậy, thông điệp thứ ba từ Hoàng Sa chính là
trách nhiệm chúng ta đối với sự nghiệp bảo vệ biển đảo của Tổ quốc.
Trong những ngày này, một lần nữa, xin đề nghị nhà nước CHXHCN Việt Nam
chính thức công nhận 74 chiến binh của Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh để
bảo vệ Hoàng Sa cách đây 40 năm là những liệt sĩ. Vẫn biết, sự tôn vinh
trong trái tim nhân dân là sự tôn vinh cao nhất và vĩnh hằng. Nhưng như
đã nói ở trên, sự công nhận chính thức của nhà nước cũng là “nhất cử
lưỡng tiện”. Nhân đây xin đề xuất: đưa các cuộc chiến đấu bảo vệ Hoàng
Sa, Trường Sa, đưa các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1978 và
biên giới phía Bắc năm 1979 vào sách giáo khoa lịch sử.
Đảo bị chiếm không đồng nghĩa với đảo bị mất!Để giành lại
Hoàng Sa và một phần Trường Sa, phải coi trọng cuộc đấu tranh chính trị
và pháp lý. Trung Quốc đem quân đánh chiếm các đảo của một quốc gia láng
giềng là hoàn toàn đi ngược lại những nguyên tắc sơ đẳng trong quan hệ
quốc tế. Dù Trung Quốc không đồng ý, Việt Nam vẫn phải thu thập, hoàn
chỉnh hồ sơ trên cả hai mặt: tranh chấp lãnh thổ và tranh chấp hàng hải.
Phải dầy công nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm để Việt Nam đưa Trung
Quốc ra Tòa án quốc tế. Hành vi này, trước hết, nhằm duy trì tính liên
tục trong các tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo và các
đảo bị chiếm đóng. Một vụ kiện Trung Quốc ở thời điểm hiện nay sẽ giúp
Việt Nam thoát được cái bẫy “nguyên tắc đồng thuận” được quy định tại
Tòa quốc tế.
Trung Quốc thường biện bạch về những “cơ sở lịch sử”, vì nhìn chung,
Trung Quốc là quốc gia có truyền thống làm sử được xếp hạng trên thế
giới. Tuy nhiên, tư liệu lịch sử thật của họ về biển đảo lại đuối lý hơn
so với chúng ta. Trên thực tế, Trung Quốc là một “quốc gia lục địa” chứ
không đủ điều kiện để được coi là quốc gia biển (do tỷ lệ đường bờ biển
trên tổng diện tích lãnh thổ là một tỷ lệ thấp). Triết lý phát triển
của họ xưa nay là “tư duy lục địa”. Não trạng người Trung Quốc là não
trạng của cư dân bình nguyên và thảo nguyên chứ không phải là não trạng
của ngư dân. Họ từng quay lưng ra biển từ hàng mấy ngàn năm trước. Có vô
số chứng cớ về việc các triều đại phương Bắc đã giao phó trách nhiệm về
Biển Đông cho các vua chúa Việt Nam, còn Trung Quốc chủ yếu “ngồi chờ
báo cáo”.
Ngày nay cần gắn bảo vệ chủ quyền biển đảo với Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (10/4/2013)
về việc tích cực và chủ động hội nhập toàn diện. Nghị quyết chỉ rõ,
đường lối của nhà nước trong vấn đề biên giới lãnh thổ giúp ta tranh thủ
được sự ủng hộ quốc tế đối với chính sách đúng đắn và lập trường chính
nghĩa của Việt Nam. Trong khi nỗ lực phát huy sức mạnh nội tại, hội nhập
quốc tế sẽ giúp chúng ta nâng cao tiềm lực mọi mặt, trong đó có tiềm
lực quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập toàn diện kiến tạo nên hệ
thống đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, giúp ta cộng hưởng chặt
chẽ hơn với khu vực và quốc tế trong việc thúc đẩy thực thi các hiệp
định, hiệp ước ký kết với láng giềng, trong đó có các văn kiện liên quan
đến biên giới, biển đảo, góp phần duy trì hòa bình và an ninh khu vực.
*
Tưởng niệm ngày Hoàng Sa bị chiếm đóng, chúng ta nhận thức rằng, biển
đảo chỉ là một trong nhiều vấn đề hiện nay của bang giao Việt-Trung.
Giới học thuật Trung Quốc gần đây đã tiết lộ một số quan điểm khá thực
tiễn về tổng thể quan hệ Trung-Việt. Trong một bài viết của mình, tác
giả Kha Tiểu Trại cho rằng không có cơ sở để tìm được “sự đột phá” trong
quan hệ với Việt Nam. Quan hệ Trung-Việt chỉ có thể xếp trên quan hệ
của Trung Quốc với Philippines. Theo tác giả, sự tương đồng ý thức hệ
không phải là cơ sở cho “sự đột phá”. Thực tiễn lịch sử bang giao hàng
ngàn năm nay đã chứng minh xu thế không mấy tích cực trong quan hệ giữa
hai nước sau khi đã được bình thường hóa. Vẫn theo nghiên cứu gia này,
điều cần làm hiện nay là phải “tái bình thường hóa” bang giao
Trung-Việt.
Để kết thúc, tôi xin nhắc lại ý kiến của nhiều chuyên gia: Hoàng Sa và
Trường Sa từ nay là chất men mới để giáo dục lòng yêu nước. Hãy cổ võ
trên cả nước các chương trình “Nhịp cầu Hoàng Sa”, “Ngàn thanh niên
thế kỷ 21”, “Giấc mơ Việt Nam”, “Chương trình Minh triết về Biển Đông”,
“Nuôi chí giành lại Hoàng Sa”. Từng cá nhân hãy xây dựng cho mình
kế hoạch nâng cao năng lực bản thân để tăng sức mạnh cộng đồng. Hãy tích
cực góp phần thực hiện tốt hòa giải, hòa hợp dân tộc, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế toàn diện, xây dựng đất nước trong ấm ngoài êm. Đó mới
là nền tảng lâu bền để giữ vững Trường Sa và đòi lại Hoàng Sa. Chỉ một
chút thờ ơ với bảo vệ chủ quyền biển đảo, lãnh thổ đất nước, nơi bao máu
xương cha ông đã đổ xuống để gìn giữ, cũng là đắc tội với tổ tiên.
No comments:
Post a Comment