24/08/2013
Nguyễn Thái Nguyên -
Lâu nay, thi thoảng tôi có viết vài trang ngắn về chuyện này chuyện
nọ thì cũng mang tính thông tin là chủ yếu, không có tham vọng trình bày
cái gì. Cũng có người hỏi tại sao không thấy tôi viết gì về nông thôn
nông nghiệp, một lĩnh vực tôi gắn bó rất lâu và cũng rất sâu nặng? Vâng,
nói như Phạm Tiến Duật, “không có kính không phải vì xe không có
kính…”. Tôi thấy khó để viết gì nếu mình không có cơ hội nào đằm mình
trong cái biển mênh mông ấy và… đây lại là lĩnh vực không chỉ khó mà còn
rất nhạy cảm.
Gần đây thấy đang dấy lên một “phong trào” mới là bàn nhau chuyển đổi cơ
cấu, nôm na là bớt đất trồng lúa chuyển sang trồng cây khác mà thấy có
một số vị lên tivi nói như là một lối thoát mới theo tinh thần Nghị
quyết của đảng: Tái cơ cấu!
Lại tái cơ cấu! Lại phong trào!
Tôi thấy chúng ta, kể cả các nhà chức trách trên lĩnh vực nông
nghiệp, nói thì có vẻ bức xúc đấy, nhưng đưa ra giải pháp thì lại đúng
vào những con đường cũ mà tương lai của các phong trào ấy không bao lâu
lại đưa nền nông nghiệp vào chỗ bế tắc, rồi lại phong trào mới. Làm kinh
tế, nhất là kinh tế thị trường mà bên trên cứ nay quyết cái này mai
quyết cái khác theo cách phong trào đời xưa thì sao gọi là bàn định một
chính sách phát triển được.
Tái
cơ cấu, tái cấu trúc… chẳng phải là thể hiện ý chí của bên trên hay
sao, mà đâu đâu cũng tái cơ cấu, giống như khi nghị quyết nói “mũi nhọn”
thì ở lĩnh vực nào và ai ai cũng đều mũi nhọn. Rốt cuộc các mũi nhọn ấy
ra sao rồi? Nghị quyết nói “đột phá” thì lại ra phong trào đột phá. Cái
gì và ở đâu cũng đột phá rồi đột phá được gì? Nay lại tái cấu trúc và
các chuyên gia đang coi như một phát kiến mới?
Chừng nào chúng ta chưa ra khỏi kiểu tư duy phong trào được quyết từ
trên, bất kể đó là nghị quyết TW hay CP thì cũng là một thứ ý chí không
bao giờ thay được các quy luật phát triển nội tại của chính nông thôn
nông nghiệp VN trong thời điểm hiện nay. Không có cách nào khác là phải
tổng kết từ thực tiễn để đưa ra được những chủ trương chính sách hợp
lòng dân, hợp với thực tiễn từng vùng, thậm chí tiểu vùng của nông
nghiệp mới có hiệu quả.
Xin tạm gác qua bên những luận bàn về lợi nhuận trồng lúa ra sao rồi
so sánh cây này với cây kia theo những giả định của các nhà khoa học
quan phương. Vẫn là bên trên quyết định tất cả, vẫn là “phong trào” thì
thất bại là điều có thể dự liệu được.
Chúng ta luôn tự hào về nền văn minh lúa nước và có lẽ điều đó đáng
tự hào thật. Nhưng thế giới này còn có một nền văn minh cây trồng cạn
nữa mà ta thường ít khi bàn tới. Về cơ bản, hai nền văn minh này lại ở
hai phía Đông và Tây. Hai nền văn minh ấy không những làm ra hai hệ
thống sản phẩm khác nhau để tạo lập hai truyền thống ẩm thực khác nhau,
mà quan trọng hơn, hai nền văn minh ấy dựa trên hai nền tảng khoa học kỹ
thuật rất khác nhau và rất cách xa nhau. Ai cũng biết nền văn minh nào
có trình độ cao hơn.
Sau khi thế giới phương Tây thoát khỏi đêm trường dưới gông cùm của
đế chế Giáo hội để bước vào kỷ nguyên tự do, cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật những thế kỷ sau đó đã tạo ra biến đổi to lớn, xây dựng nên một
nền văn minh mới như chúng ta đã thấy. Cuộc cách mạng kỹ thuật ấy không
chỉ diễn ra trong lĩnh vực công nghiệp mà nông nghiệp cũng theo đó có
bước phát triển vượt bậc. Quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp diễn ra
từ khâu sản xuất – thu hoạch – chế biến – bảo quản… đối với hầu hết các
sản phẩm truyền thống của nền nông nghiệp phương Tây mà chủ yếu là các
cây trồng cạn cũng như gia súc gia cầm. Phương Đông được thụ hưởng những
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ấy một cách thụ động như
là “ăn sẵn” những tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ mà phương Tây đã
sáng tạo ra.
Tiếc thay, những gì liên quan đến nền văn minh lúa nước thì người
phương Tây không nghĩ ra hộ người phương Đông được nên cứ thế, toàn bộ
nền văn minh lúa nước cứ dẫm chân tại chỗ hoặc tiến một cách vô cùng
chậm chạp.
Người Nhật có nghĩ ra máy cấy, làm ra máy xay xát gạo cao cấp… nhưng
đó lại là vài thứ “thêm nếm” trong tiến trình phát triển của nước Nhật
mà thôi.
Đối với nền nông nghiệp Việt Nam, theo lẽ tự nhiên, cái gì chúng ta
có thể xin các nước XHCN thì du nhập (như máy cày của Liên Xô hay một số
máy móc nông cụ thô thiển và tốn năng lượng mà hiệu quả thì vô cùng
nhỏ), còn lại thì cứ nhất nước nhì phân mà tiến lên. Chỉ tính riêng từ
năm 1975 trở lại đây thì nông thôn nông nghiệp nước nhà đã có những bước
tiến gì là to lớn nhất?
Theo thiển ý, đã đến lúc chúng ta phải dành thời gian thỏa đáng để
suy nghĩ, để tìm tòi, để phân tích, đánh giá lại một cách thật khoa học
và thực tiễn những gì thuộc truyền thống của nền “văn minh lúa nước”
phải phát huy và những gì cần phải thay đổi một cách căn bản, triệt để
vì nền nông nghiệp như chúng ta là một một nền nông nghiệp sử dụng hóa
chất và tiêu dùng nước vô cùng lớn, trong khi môi trường sinh thái ngày
càng tệ và nước kể cả nước mặt cũng như nước trong lòng đất của chúng ta
không phải là vô hạn, nếu không nói rằng đã bắt đầu khan hiếm.
Tạm gác lại chuyện hiệu quả đầu tư, ngoại trừ thủy lợi và giao thông
nông thôn ra, bản thân nền nông nghiệp nước ta trong hàng chục năm qua
về cơ bản chưa có bước chuyển biến nào đáng kể, nhất là các tỉnh miền
Bắc.
Nếu nói “nhất nước”
thì chưa thể yên tâm rằng đã giải quyết xong hay cơ bản bảo đảm được
vấn đề úng và hạn như là một căn bệnh kinh niên của nền nông nghiệp lúa
nước. Mặt khác, mô hình thủy lợi mà nền nông nghiệp nước ta áp dụng là
mô hình lạc hậu nhất, hao tốn nước mặt nhiều nhất. Trong khi nhân loại
đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nước ngọt với hằng hà sa số những
lời khuyến cáo từ Liên Hợp Quốc thì chúng ta, hình như vẫn đinh ninh
rằng “nhiều như nước, rẻ như nước”, không hề có một chút lo lắng nào về
nguồn nước đang cạn kiệt một cách nhanh chóng.
“Nhì phân”
thì liệu đã hơn gì về lượng? Còn chất thì chắc chắn ngày càng kém hơn vì
hóa học là chủ yếu. Phân bón sinh học và hữu cơ nói cho có thôi chứ
không mấy ai có thể đầu tư được nữa, trừ một số rất ít rau, hoa, quả
trong các vườn của các hộ gia đình theo kiểu tự cung tự cấp.
“Tam cần”?
Hiện tượng một bộ phận nông dân “trả ruộng” là con số nhỏ, nhưng nói
rằng nông dân đang hết lòng hết sức một nắng hai sương gắn bó với ruộng
đồng cũng không còn được như xưa. Vì sao? Không phải vì nông dân bây giờ
“lười nhác” hơn thời mới thực hiện cơ chế khoán mà chủ yếu là lợi ích
của họ trên mảnh đất được giao đã kém hơn trước đây. Thuế nông nghiệp
tuy đã được bãi bỏ, nhưng trên lưng người nông dân, mà rốt cuộc quy về
thửa ruộng được giao khoán còn rất nhiều khoản phí như một loại ký sinh
trùng ăn bám ngày càng nhiều, càng nặng mà nhiều phương tiện truyền
thông đã nêu thì người nông dân càng đầu tư nhiều công sức và chi phí
thì càng lỗ.
Là một nước mỗi năm xuất khẩu 7 triệu tấn gạo, mang về 4 tỷ đôla,
nhưng thu nhập của người nông dân bây giờ có hơn gì chăng? Không có gì
đáng gọi là hơn cả: Theo báo cáo điều tra năm 2012 ở 12 tỉnh thành phố
của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW thì chỉ khoảng 200 đôla/người/năm
ở vùng trồng lúa. Những năm 1980, lúc nước ta còn phải xin viện trợ của
các nước XHCN trên dưới 3 triệu tấn lương thực/năm, bình quân GDP/người
của cả nước chỉ có 400 đôla thì khu vực nông thôn cũng ở mức 200 đôla.
Sau hơn 30 năm đổi mới, nay theo số liệu chính thức, bình quân đầu người
cả nước 1.600 đôla mà nông thôn vẫn chỉ 200-300 đôla thì chúng ta nói
gì với nông dân? Họ có đáng “cần” hơn nữa không?
Không biết có thể tin cậy vào số liệu của thời kỳ nào, nhưng về đại
thể thì có thể khẳng định thu nhập của người dân ở khu vực nông thôn nếu
không tương đương những năm 80 thì mức tăng thêm cũng không đáng là
bao.
Nhân tố thứ tư là Giống
thì không biết nên đánh giá ra sao. Nói cho công bằng thì cũng chịu khó
nhập giống này giống kia về để nông dân thí nghiệm đấy, nhưng không
trên một nền tảng vững vàng nào cả. Nếu nói chúng ta đang phát triển
theo chỉ tiêu số lượng thì năng suất các loại cây con cũng không hơn ai.
Còn chất lượng là đại vấn đề của nền nông nghiệp. Ấy là nói riêng về
lúa nước mà thôi, còn hầu hết các cây trồng khác, gần như không cần quan
tâm. Bây giờ ai muốn dùng nông sản thực phẩm chất lượng cao mà có điều
kiện về kinh tế thì chỉ chọn hàng Thái, Nhật, Đài Loan, Úc, Mỹ là yên
tâm nhất, kể cả gạo là thứ chúng ta có truyền thống. Rất khó khăn để mua
được ít gạo Tám đúng là Tám xoan như xưa nữa thì lỗi tại ai cho dù
chúng ta đã đặt tất cả mọi hoạt động của nền nông nghiệp trên cái nền cơ
bản là lúa nước?
Hãy lấy cây lúa để bàn riêng một chút thì cũng lại là nước và chỉ là
lúa nước. Khi xưa, ở những vùng khô hạn, nhất là các tỉnh Trung bộ và
vùng ven biển, vùng núi và trung du, có rất nhiều loại lúa khác nhau
không cần nhiều nước. Ngoài lúa nương của vùng núi, còn có giống lúa cấy
“vùi” hay “phui” của vùng Nghệ Tĩnh cho đất Quảng Bình. Khi cấy không
có nước, nhưng cứ gieo hay cấy xuống đó, rồi chờ trước sau Rằm tháng Bảy
âm lịch, thể nào cũng có mưa và nhìn cánh đồng lúa tưởng đã chết hết,
nhưng sau mưa là lúa tốt rất nhanh. Vùng ven biển, đất phèn hay “nước
lợ” đều có giống lúa riêng. Bằng tư duy lúa nước, chúng ta đã cố làm
thủy lợi cho tất cả các vùng và đương nhiên, tính bấp bênh là không
tránh khỏi cho dù chúng ta bỏ ra bao nhiêu tiền đầu tư cũng thế thôi.
Chúng ta luôn nói đến ưu thế của một nền nông nghiệp đa dạng sinh học và
đa vùng sinh thái, nhưng rốt cuộc đã quy về sự đơn điệu, đơn giản là
lúa nước. Khoai sắn và hàng chục cây lương thực khác vẫn như thời cổ đã
có thế nào cứ nguyên như thế, kể cả giống và công nghệ chế biến, bảo
quản. Đây là điều khác xa giữa chúng ta với các nước nông nghiệp cạnh ta
như Đài Loan hoặc Thái Lan.
Khi tôi hỏi một nhà khoa học nông nghiệp Đài Loan vì sao năng suất
lúa và các loại cây trồng của Đài loan thấp quá vậy thì ông ta đã trả
lời: Khác với Đại lục và các bạn Việt Nam, nền nông nghiệp của chúng tôi
chỉ quan tâm đến chất lượng mà không bận tâm nhiều đến số lượng như vài
chục năm trước đây. Bây giờ mà không làm ra sản phẩm chất lượng cao và
an toàn thì không bán được cho ai cả. Vẫn là nền văn minh lúa nước ấy
thôi, mà họ lại ở giữa biển, khó khăn hơn chúng ta nhiều, nhưng họ không
ngồi chờ phương Tây nghĩ giúp mà đã chịu nghĩ, chịu tìm những lối đi
riêng cho bản thân nền nông nghiệp của họ, đặc biệt là giống các loại cây
ăn trái và hải sản nuôi trồng.
Thái Lan tuy trình độ phát triển thấp hơn Đài Loan nhưng vì sao gạo
của họ luôn luôn bán giá cao hơn gạo VN? Theo tôi có 3 lý do:
Một là họ đã
xuất khẩu gạo từ thuở chúng ta còn rất đói và đương nhiên, họ thành thạo
thị trường, có thương hiệu ổn định đối với khách hàng, đặc biệt là
khách hàng nhà giàu. Các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan chẳng hề có tý ưu
việt gì về bao cấp của nhà nước cả, tự họ tìm kiếm thị trường rồi tự họ
bơi trong cơ chế thị trường ấy. Không phải lúc nào họ cũng lãi, nhưng
chữ tín cả với người tiêu dùng ở ngoài nước và với người nông dân trồng
lúa trong nước thì họ phải giữ vì nếu không, trước hết họ mất thị trường
trong nước mà mất thị trường trong nước thì lấy gì xuất khẩu? Ở ta, hai
Tổng Công ty I và II liệu đã bao giờ lo mất thị trường trong nước? Họ
có quyền mua gạo giá thấp và không có gì ràng buộc họ phải tìm bằng được
khách hàng tốt để bán giá cao.
Hai là Chất
lượng gạo, bao gồm cả giống và công nghệ chế biến. Khi VN ra thị trường
gạo thì những thị trường mà khách tiêu dùng có thu nhập cao như các nước
phương Tây hay Trung Đông cơ bản đã có thương hiệu gạo Thái, gạo Nhật
chiếm lĩnh. Khác với thói quen tiêu dùng gạo của người Việt, họ không
bận tâm với chất lượng gạo dẻo, thơm… như gu người Việt, họ quen với gạo
hạt dài của Thái và đánh bóng, nhặt sạch, trắng, đều tăm tắp “như các
hạt nhựa”. Đó mới là gạo tốt nhất đối với người tiêu dùng ở các thị
trường này. Loay hoay trong rất nhiều năm, chúng ta không du nhập được
loại giống lúa có độ dài hạt gạo từ 6-6,2 mm như gạo loại I của Thái Lan
nên phải cam chịu bán giá thấp sang các thị trường nghèo hơn. Những năm
gần đây, ta có nhập được giống lúa hạt dài phù hợp với một số vùng
ĐBSCL, nhưng chế biến chúng ta vẫn thua Thái nên dù cùng một loại gạo
vẫn thường khó cạnh tranh về giá với Thái Lan.
Thứ ba và có
lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất, đó là thói độc quyền dẫn tới vô trách
nhiệm của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nhà nước. Trước năm 1997, tình
hình xuất khẩu gạo ở ĐBSCL về cơ bản như tình hình hiện nay. Thủ tướng
năm nào cũng phải lo mua lúa tạm trữ, xử lý lúa “chạy lũ” cho nông dân
mà không mang lại lợi ích bao nhiêu cho người dân ĐBSCL. Lúc đó có 40
công ty xuất khẩu gạo quốc doanh của Tổng Công ty lương thực I và II độc
quyền, còn tư nhân chỉ là các chành vựa mua gom cho các công ty quốc
doanh là chủ yếu. Hạn ngạch xuất khẩu gạo được cấp cho 2 TCT cũng như
một thứ giấy tờ có giá 2 đôla/tấn. Vì thế một số công ty quốc doanh, đã
bán quota cho các doanh nghiệp tư nhân cũng đủ kiếm lời mà không cần
xuất khẩu. Trước tình hình này Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đưa ra 3 quyết
định hết sức quan trọng: (1) Chính phủ nắm giữ hạn mức
xuất khẩu hàng năm, lúc đó là 4 triệu tấn/năm. Khi các hợp đồng xuất
khẩu gạo lên đến gần 4 triệu tấn thì Thủ tướng sẽ quyết định ngưng ký
tiếp các hợp đồng, bất kể là giá cao như thế nào. Việc xuất thêm bao
nhiêu là tùy thuộc vào thực tế số gạo có thể cho phép xuất do Thủ tướng
quyết định. Trên cơ sở này, xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo đã tồn tại nhiều năm trước đó,
cũng đồng thời chấm dứt một nguồn gốc tiêu cực mua bán hạn ngạch, hối
lộ đút lót cho các cơ quan có thẩm quyền và cho cả 2 TCT để có hạn ngạch
xuất khẩu gạo. (2) Thủ tướng Võ Văn Kiệt khẳng định tại hội nghị 9 tỉnh ĐBSCL lúc đó rằng nông
nghiệp là lĩnh vực gắn bó rất chặt chẽ với sự lãnh đạo chỉ đạo của địa
phương. Không lý gì nắng hạn, bão lụt, sâu rầy… thì chính quyền địa
phương và cơ sở lo toan ngược xuôi mà đến lúc làm ra hạt gạo xuất khẩu
thì địa phương không có bất cứ quyền gì và lợi ích gì. Còn hai Tổng công
ty chẳng làm gì, đóng góp gì vào quá trình sản xuất lại là người có
quyền và lợi ích to nhất trong việc xuất khẩu gạo? Đây là điều vô lý.
Chính vì thế, Thủ tướng quyết định giao quyền xuất khẩu phần lớn gạo
cho các tỉnh ĐBSCL (khoảng 60% tổng lượng gạo xuất khẩu), hai TCT lương
thực I và II chỉ còn khoảng 40%. (3) và đây là điều rất mới mẻ và
thực tế đã tạo ra một sức cạnh tranh mới, động lực mới cho thị trường
lúa gạo, đó là cho phép và tạo điều kiện để những doanh nghiệp tư nhân
có đủ điều kiện được phép tìm thị trường và trực tiếp xuất khẩu gạo.
Ngay từ năm đầu tiên đã có gần 40 doanh nghiệp tư nhân cùng xuất khẩu
gạo. Thật ra, một phần lớn trong số họ là những công ty hoặc chành vựa
đã có nhiều năm gắn bó với các chủ gạo lớn ở Sài gòn – Chợ lớn trên lĩnh
vực xuất khẩu gạo trước năm 1975, nên họ còn có “khách hàng quen” và
kinh nghiệm nhất định trên thương trường quốc tế, nhất là khu vực Đông
Nam Á. Nhờ đó, các tỉnh ĐBSCL không hề bị lúng túng trước quyết định này
của Thủ tướng mà ngược lại, đã tạo được bước chuyển biến mới cho xuất
khẩu lúa gạo ngay trong những năm sau đó.
Cũng cần nói lại một vấn đề khá nhạy cảm trong cơ chế độc quyền xuất
khẩu gạo trước đây: Khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt giao cho chúng tôi tổ chức
lực lượng để khảo sát và nghiên cứu tình hình xuất khẩu gạo ở các tỉnh
ĐBSCL, tôi đã trình lên Thủ tướng danh sách của đoàn (Lúc đó anh Cao Đức
Phát, Vụ trưởng vụ Chính sách Bộ NN không tham gia đoàn, nhưng tôi biết
anh ấy đang dẫn một đoàn đi khảo sát ở ĐBSCL, chúng tôi đã liên lạc với
nhau và có lúc cùng đi khảo sát nên anh Phát, nay là Bộ trưởng biết khá
rõ tình hình này). Vài hôm sau, Thủ tướng gọi tôi lên và nói: “Tôi đồng
ý, nhưng đưa thêm một thành viên bên Bộ CA có được không?”. Với kinh
nghiệm nhiều năm nghiên cứu về nông thôn nông nghiệp ở các địa phương,
tôi rất tự tin trong việc nhận nhiệm vụ trước Thủ tướng, nhưng với gợi ý
này, tôi thật sự bất ngờ. Tôi hỏi lại ông: “Thưa, ý của anh Sáu đưa
thêm người bên CA vào là thêm nhiệm vụ gì ạ?”. Ông giải thích: “Đây, cậu
giữ lấy đọc xong đưa cho Văn phòng (Đó là một tập khoảng 5 hay 6 thư tố
cáo gửi lên Thủ tướng). Người ta báo cáo: “có một số người của các công
ty nhà nước, khi ra nước ngoài thương thảo hợp đồng với người ta đã móc
ngoặc, hạ giá xuống để chia nhau. Thực tế, giá gạo không phải vậy,
nhưng họ ký với nhau chỉ thấp như vậy thôi. Tôi không biết hư thực ra
sao, nhưng đây là chuyện lớn, tôi muốn làm rõ”.
Người viết thư tố cáo lên Thủ tướng có ký tên hẳn hoi và tôi biết rất
rõ 4 người trong số họ, đều là người trong lĩnh vực xuất khẩu gạo cả.
Tôi thấy hôm ấy, những lời của Thủ tướng buồn một cách kỳ lạ. Tôi thưa:
“Xin anh Sáu cho phép nghiên cứu khảo sát cơ chế trước, sau khi tìm ra
giải pháp mới để khắc phục tình hình khó khăn trước mắt thì để các anh
bên CA tham gia tốt hơn. Bây giờ mà thấy trong đoàn lại có một hai ông
đại tá công an là rất khó “hỏi han” tình hình đó anh Sáu”. Đến đó thì
tôi thấy ông cười và bảo thôi, thế thì các cậu cứ làm đi! Tôi không thể
khẳng định được chuyện này có hay không bởi vì sau khi đi khảo sát về,
nghe chúng tôi báo cáo thực trạng tình hình và đề xuất giải pháp thì ông
chấp nhận và triển khai luôn. Cũng tại buổi báo cáo với Thường trực CP,
tôi có nói thêm: tình hình mua bán cô-ta là có thực nhưng xin anh Sáu
đừng xử lý chuyện này vì tình hình hiện nay rất phổ biến cả ở phía Bắc
chứ không riêng ĐBSCL. Ông và các Phó Thủ tướng cùng cười và sau đó
không thấy ông nói gì đến chuyện bên CA điều tra về những chuyện này
nữa. Dẫu như thế, nhưng nay gặp lại chuyện giá gạo VN quá thấp một cách
bất thường so với gạo các nước làm tôi lại liên tưởng đến cái “nghi án”
năm xưa! Trong tình hình hiện nay ở nước ta, không có chuyện gì là không
thể xẩy ra cả. Dù thế nào thì một khi các doanh nghiệp nhà nước độc
quyền đã ký các hợp đồng xuất khẩu gạo với giá cả rẻ nhất thế giới thì
nông dân còn trông mong bán lúa với giá cả hợp lý cho ai được nữa? Chính
phủ lại mua “tạm trữ” và đây là “vùng đặc quyền” tham nhũng vô phương
cứu chữa. Nếu bên ta khó thấy, xin hãy ngó qua bên Thái Lan thì rõ vì
bên ấy có các đảng đối lập đang phanh phui nhiều chuyện tày đình trên
lĩnh vực mua lúa tạm trữ thóc và gạo trong nông vụ vừa qua!
Điều khác biệt của tình hình hiện nay là có thêm Hiệp hội lương thực
Việt nam (VFA). Nhưng thực chất thì VFA cũng do hai Tổng công ty làm chủ
và chi phối. Hai TCT này chiếm trên dưới 70% số lượng gạo xuất khẩu và
họ còn có đặc quyền ra nước ngoài ký kết các hợp đồng lớn cấp Chính phủ
rồi về “chia” cho các doanh nghiệp trong nước, mà đa phần các doanh
nghiệp ấy cũng là thành viên của TCT. Nói khác đi thì đây lại là một
“Siêu Tổng công ty nhà nước”, còn độc quyền cao hơn thời những năm 90
của thế kỷ trước. Việc Chính phủ giao cho VFA “điều hành xuất khẩu gạo”
thì có nghĩa Bộ Nông nghiệp và CP đã khẳng định cơ chế độc quyền trong
xuất khẩu gạo như thời chưa đổi mới, không có vấn đề gì phải bàn. Việc
quay lại độc quyền như thế thì nông dân được lợi hay các TCT nhà nước
được lợi là điều đã rõ. Và những khó khăn, tiêu cực trong mua bán, xuất
khẩu gạo như hiện nay cũng không phải là điều gì quá lạ lùng.
Nếu quan niệm rằng “bớt diện tích trồng lúa” (tức là tái cấu trúc
theo cách gọi của một số người) là một trong những giải pháp cơ bản để
giải quyết các khó khăn trong nông nghiệp hiện nay thì e rằng kỳ vọng đó
hơi quá, nếu không nói rằng đó là ảo tưởng một khi toàn bộ nền tảng
chính sách cứ lặp đi lặp lại tình trạng quốc doanh là chủ đạo và nắm giữ
độc quyền; các hợp tác xã là tổ chức kinh tế tất yếu bảo đảm cho nông
nghiệp phát triển theo định hướng XHCN; đất đai là sở hữu toàn dân, lại
chỉ giao khoán theo thời hạn mà “người giao khoán” ngoài việc tận thu
hàng chục khoản phí khác nhau thì không có bất cứ trách nhiệm đáng kể
nào đối với quá trình đầu tư sản xuất của các hộ nông dân… Ai đó đã nói
đúng, không thể đặt trách nhiệm bảo đảm an ninh lương thực cho cả quốc
gia này lên cái vai gầy của người nông dân được. Nếu biết vấn đề an ninh
lương thực cho quốc gia một cách lâu dài là một vấn đề có tầm chiến
lược thì trách nhiệm và chính sách đối với người nông dân và nông thôn
phải rất khác.
Hà nội 8/2013
N.T.N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment