Những điều nói rõ thêm…
Lê Hiếu Đằng
Sau khi bài viết Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh của tôi và bài viết Phá xiềng
của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận đăng tải trên các trang mạng, một số bạn bè,
đồng đội, nhân sĩ trí thức, nhà báo…, hoặc qua điện thoại hoặc gặp trực
tiếp tôi đặt một số vấn đề, khiến tôi thấy cần làm rõ thêm về những suy
nghĩ của mình.
Trong tình hình đặc biệt cần có những biện pháp đặc biệt, những liệu
pháp “sốc” để đẩy nhanh quá trình phát triển theo chiều hướng dân chủ,
tiến bộ để hội nhập thực sự vào dòng chảy hiện nay trên thế giới.
Tôi còn nhớ cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói ý này trong một cuộc gặp
gỡ với một số nhân sĩ, trí thức và anh em trong phong trào đấu tranh của
sinh viên học sinh trước năm 1975, được thường xuyên tổ chức vào ngày
30 tháng 4 hàng năm – ngày mà theo cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt “có triệu
người vui, có triệu người buồn”.
Thế thì tình hình đặc biệt hiện nay là gì? Có thể nói một cách khái
quát là Việt Nam đang rơi vào một cuộc tổng khủng hoảng sâu sắc và toàn
diện trên tất cả các lãnh vực mà nhiều chuyên gia, nhiều nhân sĩ, trí
thức, nhà báo trong cũng như ở nước ngoài đã phân tích. Tôi chỉ xin nêu
một số tình hình sau đây.
Nền kinh tế của chúng ta đang trên bờ vực thẳm do nhiều nguyên nhân
mà nguyên nhân chủ yếu là do sự lãnh đạo và điều hành yếu kém của Đảng
và Nhà nước Việt Nam. Đặc biệt, những tập đoàn, những nhóm lợi ích đang
càng ngày lũng đoạn, chi phối nhà nước một cách nghiêm trọng; tệ nạn
tham nhũng, lãng phí tràn lan không thể nào ngăn chận, làm thất thoát
không biết bao nhiêu của cải, tài sản của nhân dân. Về vấn đề này, nhiều
bài báo, nhiều phát biểu của các chuyên gia kinh tế trong nước và ở
nước ngoài đã phân tích một cách sâu sắc với những cứ liệu cụ thể, tôi
không nói gì thêm.
Đạo đức xã hội, trong đó những giá trị truyền thống của dân tộc, của
gia đình bị xoáy mòn dữ dội trước lối sống thực dụng, giả dối, chạy theo
chức vụ, đồng tiền của đông đảo cán bộ, đảng viên và một bộ phận nhân
dân. Đặc biệt hai lãnh vực liên quan đến sự hình thành nhân cách và thể
chất con người là giáo dục và y tế ngày càng bị thương mại hóa một cách
tàn nhẫn, nên đã xuống cấp nghiêm trọng và toàn diện, không phương cứu
chữa.
Sự phân hóa xã hội giàu nghèo ngày càng dữ dội. Một bộ phận nhỏ giàu
lên nhờ tham nhũng, buôn lậu, mua quan bán tước. Còn đại bộ phận nhân
dân, nhất là nông dân, công nhân, những người lao động, cuộc sống vô
cùng khó khăn, mất đất mất nhà, phải ly hương khắp nơi, đôi lúc phải cho
con em đi lao động nước ngoài như một lối thoát cho gia đình. Thậm chí
một số nữ thanh niên rơi vào những địa ngục lao động tình dục đầy thương
tâm, mất đi phẩm giá, danh dự của những công dân Việt Nam mà nhà nước
phải có trách nhiệm bảo hộ.
Đảng Cộng sản Việt Nam đang rơi vào tình trạng khủng hoảng về lý luận
và đường lối nghiêm trọng, với một nền “chính trị cường quyền” – chữ mà
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ám chỉ đường lối chính trị của Trung Quốc
hiện nay nhưng đau xót thay, lại được áp dụng triệt để cho nhân dân Việt
Nam. Vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng xa dân, mất lòng dân,
không có khả năng tự điều chỉnh, thay đổi. Với kinh nghiệm của một người
hoạt động trong hệ thống chính trị hiện nay dưới sự lãnh đạo “toàn diện
và tuyệt đối” của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều năm, tôi xin chứng
minh khả năng tự điều chỉnh, thay đổi của Đảng Cộng sản Việt Nam là
không có, hoặc nếu có thì phải có những điều kiện nhất định.
- Lúc tôi còn là Phó Chủ tịch thường trực và là Ủy viên Đảng đoàn
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM, có buổi làm việc với ông Lê Quang Đạo,
lúc đó là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và ông Phạm Văn Kiết (Năm Vận), Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký
của Mặt trận Trung ương. Trong cuộc họp, hai ông đặt vấn đề: Trong hệ
thống chính trị hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức chính
trị xã hội rộng lớn bao gồm nhiều giai cấp, nhiều tôn giáo, dân tộc
(theo điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) cần phải giữ vai trò “đối
trọng” để giám sát chính quyền, ngăn chận khuynh hướng độc đoán, bè
phái, tham nhũng. Hai vị nói rất say sưa về vấn đề này. Tôi và các vị
trong Đảng đoàn và Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM rất
phấn khích, đồng tình. Nhưng một thời gian sau, được biết chủ trương về
vai trò “đối trọng” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã bị phê phán kịch
liệt và có lệnh không được phép nhắc lại nữa. Ông Lê Quang Đạo cũng được
cho về nghỉ vì đã dám có chủ trương nói trên.
- Cách đây vài năm, lúc ông Phạm Thế Duyệt, nguyên Thường trực Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, cũng có một đề án “Về vai trò giám sát và phản biện xã hội Việt
Nam” gởi qua Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng đề án này cũng bị
xếp xó cùng với luật lập hội…
- Gần đây nhất là qua việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đề nghị 7
điểm và bản dự thảo một hiến pháp mới, Hiến pháp năm 2013 của 72 nhân sĩ
trí thức của cả nước đã được hàng vạn người ký tên đồng tình ủng hộ và
những ý kiến có thể gọi là “tiến bộ” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
Hội đồng chính phủ đều bị lờ đi và dự thảo lần thứ tư trình trước Quốc
hội vừa rồi có những điều còn lạc hậu thụt lùi hơn cả Hiến pháp năm
1992, nhất là quyền sở hữu đất đai, vấn đề lực lượng vũ trang. Về bản dự
thảo lần thứ tư này, 40 vị nhân sĩ trí thức đã ra tuyên bố phê phán
thẳng thừng, không còn nói một cách tế nhị như trong đề nghị 7 điểm, mà
nói thẳng phải bỏ điều 4 Hiến pháp, phải thực hiện chủ trương đa nguyên
đa đảng, phải thay đổi thể chế, v.v. Phải nói đây là những ý kiến quyết
liệt nhất từ trước đến giờ của các nhân sĩ trí thức trong cả nước. Lãnh
đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không nghe, như trước đây họ đã không
nghe những ý kiến tiến bộ và rất xây dựng của những người đã từng đảm
đương những trọng trách trong Đảng và nhà nước như Trung tướng Trần Độ,
Trung tướng Đặng Quốc Bảo, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị và nguyên Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, và nhiều người nữa. Họ dùng phương châm làm
ngơ, không nghe, không thấy để tiếp tục củng cố Đảng, ngỏ hầu “một mình
một chợ” muốn làm gì thì làm, đưa đất nước đến bờ vực thẳm.
- Ngoài những sự kiện trên, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam là
tạo ra một tầng lớp cán bộ, một loại “giai cấp mới” với nhiều đặc quyền
đặc lợi để vì lợi ích cá nhân và gia đình mà sống chết bảo vệ chế độ.
Chủ trương phát triển Đảng trong trường học là minh chứng cho việc này.
Cho phát triển Đảng trong các trường trung học, đại học sẽ phá vỡ môi
trường sư phạm, làm xấu đi quan hệ giữa thầy và trò. Trong một trường
học, một lớp học thầy ngoài Đảng còn trò là đảng viên thì còn thể thống
gì trong quan hệ giữa thầy và trò. Đoàn Thanh niên Cộng sản là lực lượng
“kềm kẹp” học sinh sinh viên mà việc một số sinh viên trường Đại học
Luật lập blog “Bảo vệ công lý cho Đoàn Văn Vươn” bị Đoàn Thanh niên Cộng
sản của trường này dùng nhiều biện pháp ngăn cản, đe dọa là một ví dụ.
Hoặc hiện nay con đường tiến thân của thanh niên để leo nên những nấc
thang quyền lực, nấc thang xã hội là về phường xã công tác, vo tròn,
luồn cúi, vân vân, dạ dạ để được kết nạp vào Đảng – bước đầu tiên để họ
tiến thân vào nấc thang danh vọng. Họ biết rằng trong chế độ hiện nay
không đảng viên là không được cất nhắc đảm nhận những chức vụ quan trọng
cho họ có quyền hành để nhận quà cáp, hối lộ. Nhiều quan chức giữ vai
trò chủ chốt trong chính quyền của TP HCM hiện nay là từ con đường này
mà đi lên. Vì vậy trình độ của họ rất kém, thiếu hẳn văn hóa cơ bản,
chẳng biết gì về xã hội nhân sự, xã hội công dân, tuyên ngôn Nhân Quyền
và các nền văn hóa, triết học của thế giới, nền tảng của tri thức nhân
loại hiện nay.
- Điều nghiêm trọng hiện nay là nền Độc lập Dân tộc, toàn vẹn lãnh
thổ mà đồng bào, chiến sĩ chúng ta qua nhiều thế hệ đã hy sinh biết bao
xương máu mới giành lấy được, nay bị đe dọa nghiêm trọng bởi nhà cầm
quyền Bắc Kinh mà bản chất bành trướng, xâm lược không hề thay đổi. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nhượng bộ nhiều trong hội nghị Thành Đô năm 1990.
Đây là cơ sở cho chánh quyền Bắc Kinh mưu toan độc chiếm Biển Đông, thực
tế là đã chiếm hẳn Hoàng Sa và một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của
chúng ta và nay vẫn tiếp tục ngang ngược bắt bớ, truy đuổi cướp bóc ngư
dân của chúng ta đang đánh bắt trong những ngư trường truyền thống. Thật
là khó hiểu khi Đảng và nhà nước Việt Nam cho Trung Quốc triển khai lực
lượng, tuy gọi là dân sự dưới chiêu bài các dự án kinh tế, ở các vùng
chiến lược trọng điểm như Tây Nguyên, các vùng rừng núi phía Bắc, miền
Trung và đến cả Cà Mau của đồng bằng sông Cửu Long. Họ biến những khu
vực đó thành vùng riêng của họ, không cho người Việt Nam bén mảng vào.
Một khi có biến, “đạo quân thứ 5” này sẽ là một lực lượng làm chúng ta
không kịp trở tay mà kinh nghiệm trong những ngày đầu cuộc xâm lược của
bành trướng Bắc Kinh năm 1979 ở các tỉnh biên giới phía Bắc là những
kinh nghiệm đầy máu và nước mắt của cán chiến sĩ, đồng bào ta. Càng khó
hiểu hơn khi Đảng và nhà nước Việt Nam lại cấm hoặc lờ đi trong một thời
gian rất dài việc tổ chức các ngày tưởng niệm những người đã hy sinh
trong cuộc chiến bảo vệ tổ quốc này.
Những điều nêu trên chứng minh rằng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
đã không còn là đảng cách mạng như trước đây nữa, mà đang trở thành yếu
tố ngăn cản sự phát triển của đất nước, đưa đất nước chúng ta vào một
cuộc tổng khủng hoảng toàn diện chưa có lối ra. Gần 40 năm là thời gian
quá đủ cho một nước “cất cánh” như các nước trong khu vực. Chủ trương
đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản và chủ nghĩa lý lịch cùng với
việc không thực tâm thực hiện chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, làm
hạn chế sức mạnh đoàn kết dân tộc, một yếu tố cực kỳ quan trọng để phát
triển đất nước cũng như để chống lại sự bành trướng của bọn xâm lược Bắc
Kinh. Tôi và nhiều bạn bè đồng đội khác cho rằng nguyên nhân chính là
vai trò độc đảng của Đảng Cộng sản, không có những lực lượng xã hội khác
thực sự làm đối lập, đối trọng để giám sát, ngăn chận sự lạm quyền,
lộng quyền và các chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản đi ngược lại
lợi ích của quần chúng, của đất nước. Vì vậy đã đến lúc phải đẩy mạnh sự
phát triển của xã hội dân sự, xã hội công dân, trong đó có các tổ chức
chính trị độc lập và cùng tồn tại với Đảng Cộng sản và đấu tranh qua các
cuộc bầu cử công khai hợp pháp có sự quan sát của quốc tế. Sự ra đời
của Đảng Dân chủ Xã hội hay một đảng hợp pháp nào đó là lẽ đương nhiên,
phù hợp với sự phát triển hiện nay của một nước dân chủ thực sự. Đây là
biện pháp đặc biệt để giải quyết một tình hình đặc biệt dù cho có gây
“sốc” đối với đảng cầm quyền hiện nay. Việc rời bỏ hàng ngũ Đảng Cộng
sản Việt Nam của nhiều đảng viên vừa qua cũng như hiện nay là để không
còn ràng buộc gì nữa với 19 điều cấm đảng viên, tước đoạt một số quyền
công dân cơ bản, mà Đảng Cộng sản đã tùy tiện đặt ra, để trở thành những
công dân tự do.
Sau năm 1975 trong giới công giáo có một bài hát rất hay “Trước khi
là người công giáo tôi đã là người Việt Nam”. Trước khi trở thành đảng
viên Cộng sản, chúng tôi là người Việt Nam. Dù quá khứ như thế nào,
khuynh hướng ra sao, chúng ta đều là người Việt Nam, đều có chung một
mục đích là đấu tranh để xây dựng một nước VIỆT NAM ĐỘC LẬP – TỰ DO –
HẠNH PHÚC.
Vậy tình hình đã chín muồi để đặt vấn đề này chưa? Một số người đặt
vấn đề với tôi như vậy. Tôi và nhiều người nữa thấy tình hình đã chín
muồi, khẩn cấp lắm rồi, nếu không tích cực giải quyết thì Việt Nam sẽ
rơi vào cuộc tổng khủng hoảng triền miên, không loại trừ nguy cơ sụp đổ,
nhất là trước áp lực ngày càng nặng nề của Trung Quốc, một nước láng
giềng rất tráo trở, muốn biến nước ta thành một bộ phận, hoàn toàn phụ
thuộc họ. Đây là nguy cơ thực sự.
Còn giải thiết rằng tình hình chưa chín muồi thì lại càng phải đấu
tranh để nhanh chóng thay đổi thể chế, từ chế độ độc tài toàn trị sang
chế độ Dân chủ Cộng hòa, phát triển xã hội dân chủ, xã hội công dân với
những lực lượng chính trị độc lập để qui tụ quần chúng ngõ hầu đấu tranh
kềm chế, giám sát đảng cầm quyền một cách có hiệu quả. Nếu chưa chín
muồi thì chúng ta chủ động làm cho nó chín muồi, chứ chẳng lẽ khoanh tay
thụ động ngồi chờ cho nó chín muồi sao? Không thể có thái độ ngồi chờ
sung rụng như vậy được. Chúng ta đã ngủ một giấc ngủ dài, làm ngơ trước
những cái ác, cái xấu, cái bất công. Trước nỗi khổ của những người dân
mất tự do, mất nhà, mất đất, chúng ta phải thức tỉnh, không thể chần chừ
được nữa. Để đất nước rơi vào tình hình hiện nay có phần trách nhiệm
của giới “sĩ phu”. Vậy đã đến lúc giới sĩ phu trong cả nước phải lãnh
trách nhiệm đứng lên, dõng dạc và hiên ngang đi đầu trong cuộc đấu tranh
này. Chẳng lẽ chúng ta không thấy xấu hổ trước tấm gương sinh viên
Phương Uyên, người con gái 21 tuổi trong phiên xử của tòa án phúc thẩm
tại Long An vừa qua hay sao? Trước áp lực của xã hội, của quần chúng,
tòa án phúc thẩm buộc phải xem xét lại bản án và Phương Uyên được trả tự
do ngay tại tòa. Đây là một kết quả ngoạn mục, ít ai nghĩ đến. Nếu
chúng ta cứ thụ động ngồi chờ cho tình hình chín muồi thì chắn hẳn bản
án sẽ khác đi. Bất cứ cuộc đấu tranh nào, qui luật chung là đều có những
“đột phát khẩu” để phá rào cho quần chúng tiến lên. Sẽ có hy sinh mất
mát nhưng chúng ta phải chấp nhận.
Một vấn đề nữa là quá trình ra đời và phát triển một tổ chức chính
trị, kể cả một đảng chính trị, không thể một ngày một bữa mà có ngay.
Đọc bài viết Phá xiềng của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, nhiều người
hỏi là Đảng Dân chủ Xã hội đã có trên thực tế chưa. Thực ra bài viết của
nhà báo Hồ Ngọc Nhuận chỉ nêu ra một ý tưởng để mọi người cùng suy
nghĩ. Chứ thực ra việc thành lập một tổ chức chính trị nào, kể cả Đảng
Dân chủ Xã hội, đều phải theo một qui trình nhất định. Chúng ta chủ
trương đây là một việc làm công khai, hợp pháp nên trước tiên phải thành
lập một ban vận động để sơ thảo cương lĩnh, điều lệ để có cơ sở cho các
tầng lớp nhân dân hiểu rõ tổ chức này như thế nào, đường hướng ra sao
để ủng hộ hoặc không ủng hộ và cũng là cơ sở khi đăng ký với chánh quyền
để họ xem đây có phải là một tổ chức khủng bố, phản động, như ngôn ngữ
hiện nay họ thường dùng, hay không hay đây là một tổ chức có đường hướng
tuy khác với Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng không có gì đi ngược lại lợi
ích của đất nước, của dân tộc, có thể cùng song song tồn tại với Đảng
Cộng sản và các tổ chức chính trị khác. Chủ trương của chúng ta là hòa
bất bạo động, chống lại các hành động quá khích, khủng bố, vũ trang lật
đổ. Chúng tôi tin rằng việc làm đúng đắn của chúng ta sẽ được sự ủng hộ
của đông đảo các tầng lớp quần chúng, tuy bây giờ là đa số “thầm lặng”,
những đến một lúc nào đó có điều kiện sẽ trở thành một lực lượng đấu
tranh hùng hậu để xây dựng một nước VIỆT NAM HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP, THỐNG
NHẤT, TIẾN BỘ XÃ HỘI VÀ VĂN MINH, một khát vọng sâu xa mà nhiều thế hệ
cha ông chúng ta đã mơ ước.
Cho nên đây là một quá trình vận động. Hiện nay chúng ta đang trong quá trình vận động.
Những điều tôi viết trong bài này cũng như bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh
là lời tâm huyết mà tôi đem cả tim óc để bộc bạch cho bạn bè, đồng đội
và những người đã cùng nhau chiến đấu trước hoặc hiện nay, cũng như
những người chưa quen biết trong và ngoài nước. Bệnh tôi chưa biết sẽ
diễn biến ra sao, nhưng tôi hạnh phúc được nhiều người – kể cả có vị
lãnh đạo cao của Đảng, Nhà nước – thăm hỏi, chăm sóc, có người còn cho
những loại thuốc quý. Trong tình hình bất an hiện nay, nếu biết đâu tôi
bị một tai nạn nào đó thì xin mọi người xem đây như những gì tôi để lại
cho những người thân trong gia đình, những người mà tôi thương yêu, cho
bạn bè, đồng đội và cho đời. Đó là tâm nguyện của tôi, rất mong mọi
người hiểu cho.
Sài Gòn, ngày 18 tháng 8 năm 2013
L. H. Đ.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
17/08/2013
Lê Hiếu Đằng
(bản có sửa chữa)
Sau khi công bố “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh…”, tôi nhận được rất nhiều kiến bạn bè thân hữu động viên, khuyến khích, cũng có những ý kiến muốn tôi nói thêm một vài vấn đề mà khi còn ngồi trên giường bịnh, tôi ghi vội vàng chưa thật rõ ý định nói. Đó là lý do tôi viết thêm vài dòng cho rõ ý mình, nhưng về cơ bản thì giữ nguyên nội dung đã công bố về những suy nghĩ của tôi.
Lê Hiếu Đằng
Thời gian vừa qua, có dịp vào Sài Gòn, được tin ông Lê Hiếu Đằng phải cấp cứu ở BV Bình dân, tôi và bạn bè đã đến thăm ông. Chúng tôi nhìn nhau khôn xiết bồi hồi. Sờ bàn chân ông thấy có hiện tượng phù nhẹ, nhưng trông khuôn mặt thì vẫn rất linh lợi, nhất là ánh mắt sáng láng, vẫn ngời lên cái khát vọng tha thiết về tương lai dân chủ hóa cho đất nước. Vài ngày sau tôi nhận được điện của ông, giọng rõ từng tiếng: “Thưa anh HC, tôi đã ra viện, đã trở về với đội ngũ. Sẽ sớm có bài viết tính sổ đời mình gửi đến anh”. Bồi hồi sung sướng, tôi vâng lên một tiếng thật to ở đầu dây bên này, và từ đó cứ chờ đợi bài ông.
Thì hôm nay, bỗng nhận được bài viết dưới đây trong e-mail với lời gửi gắm kèm thêm nói qua điện thoại: “Anh sửa chính tả thật kỹ giúp tôi, bởi đối với một người vừa qua cơn bệnh hiểm nghèo có thể viết còn nhiều lỗi. Nhưng toàn bộ những ý tưởng trong bài là của tôi, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
Tôi xin vâng theo lời ông. Chợt nhớ tới câu châm ngôn mà chính nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã từng nhắc: “Nhân chi tương tử kỳ ngôn dã thiện”. Người bạn của tôi trong những ngày vừa qua cũng coi như đã một lần xáp mặt với cái chết và may mắn giải thoát khỏi nó, nên những lời ông nói ra là tất cả những gì tâm huyết ông muốn gửi gắm cho đồng bạn và cho lớp trẻ đang tiếp bước mình. Những lời vừa có tính chất ôn lại chuyện cũ để chiêm nghiệm sự đời cho sâu chín hơn, đồng thời cũng là sự kết đọng trong nó một lời tuyên ngôn chắc nịch về con đường nhất thiết phải đi để đưa dân tộc thoát khỏi số phận một chàng Sisyphe suốt đời phải đẩy khối đá khổng lồ chồng trên lưng mình như một định mệnh – mà một thời vẫn cứ mê muội ngỡ đó là trách nhiệm và vinh quang do lịch sử giao phó “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa” – nhưng ở thời điểm hiện tại thì sự quá tải trên mọi phương diện của một cái ách cực kỳ phi lý hầu như bất kỳ ai cũng cảm nhận được rõ ràng. Và câu nói âm thầm từ muôn miệng hình như đang cùng muốn thốt lên: Hãy hất nó xuống khe vực để đứng thẳng dậy, sánh bước cùng nhân loại văn minh.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Nguyễn Huệ Chi
*
Sau hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, với
45 tuổi Đảng, những trải nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa
trong phong trào học sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng, thôi thúc
tôi phải viết lại những suy ngẫm của mình nhằm “thanh toán”, “tính sổ”
lại những việc đã làm, những chặng đường đời đã đi qua, những đúng sai
mà mình đã trải.
Trong lúc nằm bịnh tôi đọc quyển Chuyện nghề của Thủy của đạo
diễn Trần Văn Thủy, truyện của các nhà văn quân đội như Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Trần Dần và qua tivi xem các chuyến đi thăm Mỹ
của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
thăm Hàn Quốc, Myanmar (Miến Điện) lại càng giục giã tôi viết những dòng
này.
Các nhà văn đã cho tôi thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người
trong cái gọi là chủ nghĩa xã hội từng được xây dựng ở Miền Bắc, một xã
hội thiếu vắng sự tôn trọng cá nhân, tôn trọng con người và quyền làm
người.
Tôi cứ lan man nghĩ mãi về những chuyến công du vừa rồi của các nhà
lãnh đạo cao nhất của nước ta như chuyến đi của Chủ tịch Nước Trương Tấn
Sang không nhận được những nghi thức đón tiếp dành cho nguyên thủ quốc
gia, hay chuyến đi thăm Hàn Quốc, Myanmar của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng. Nếu đem so sánh các chuyến đi thăm Trung Quốc của các vị thì
không khí hoàn toàn khác nhau. Không biết các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam với lòng tự trọng dân tộc có “mở mắt” thấy điều đó không?
Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi
vì công bằng mà nói anh không thể “mở lòng” với một nước mà thái độ
không rõ ràng, bất nhất.
Tất cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở nước
ngoài làm tôi suy nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh, càng khẳng định con
đường mà tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con đường tiếp tục
đấu tranh cho lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công bằng tự do dân
chủ. Ở đó con người sống với nhau một cách tử tế, thật sự được giải
phóng từ người nô lệ thành người làm chủ của đất nước. Tôi ngày càng
hiểu sâu sắc từ “GIẢI PHÓNG” không có nghĩa như ngày nay người ta thường
dùng mà là sự thoát xác thật sự làm người tự do dù cho người cai trị là
da trắng hay da vàng; điều đau khổ, bi thảm là hệ thống cai trị khắc
nghiệt nhất lại là của những người cùng dân tộc, như Việt Nam, như Trung
Quốc, v.v.
Nếu hiểu từ giải phóng theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất đồng
tình với nhận xét của nhiều nhà báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc, trong
đó có nhà báo Huy Đức trong cuốn Bên thắng cuộc mới đây. Trên một
số lĩnh vực, đặc biệt là sự giải phóng cá nhân, tôn trọng quyền con
người, quyền được tự do suy nghĩ, tranh luận, về tập quán tôn trọng pháp
luật, về cách quản trị trong thương mại, trong kinh doanh sản xuất thì
chính là Miền Nam đã “giải phóng” Miền Bắc… Đấy là chưa nói đến thóc gạo
của đồng bằng sông Cửu Long đã giải quyết vân đề lương thực cho cả nước
như thế nào…
Vì những lẽ trên tôi nói là cần phải “tính sổ” với Đảng Cộng sản Việt
Nam và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công
dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây
thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới.
1. Vì sao tôi đi kháng chiến, vào Đảng Cộng sản Việt Nam?
Vào thế kỷ trước, chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản đã làm say mê biết bao trí thức, văn nghệ sĩ ở các nước, nhất là ở
nước Pháp, cái nôi của khuynh hướng xã hội, dân chủ mà cả thời kỳ ánh
sáng với các tên tuổi như Montesquieu, Voltaire, Jean Jacques Rousseau,
v.v. với khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình đẳng. Chủ
nghĩa Marx, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản chẳng những lôi cuốn,
làm say mê nhiều thế hệ trí thức phương Tây mà ở Việt Nam cũng vậy.
Những tri thức văn nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng như Văn Cao, Xuân Diệu, Huy
Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Thế Lữ, v.v. hay những trí
thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường.
Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh mà
đi vào chiến khu chứ phần lớn trong họ ít hoặc chưa am hiểu lắm về chủ
nghĩa Marx, càng chưa hiểu chủ nghĩa xã hội rồi sẽ ra sao, nhưng họ hy
vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã hội dân chủ, tiến
bộ xã hội, tự do, hạnh phúc mà trong Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp
năm 1946 ông Hồ Chí Minh đã trịnh trọng cam kết trước toàn dân tại quảng
trường Ba Đình lịch sử.
Lòng yêu nước, lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy mọi người tham gia
Cách mạng tháng 8 và sau đó đi kháng chiến. Bạn bè tôi và bản thân tôi
cũng được thôi thúc bởi những tình cảm đó: lòng yêu nước, ý chí chống
xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ cho Tổ quốc để rồi sẽ xây dựng một
xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân, nông dân, người lao
động, những người hy sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc.
Tôi vào Đảng cũng rất đơn giản: năm 1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba
Triết) phụ trách đơn tuyến tôi, hẹn tôi gặp nhau ở một chùa trên đường
Trần Quốc Toản (nay là đường 3-2) để sinh hoạt. Anh Nguyễn Ngọc Phương
nghiêm mặt tuyên bố: “Đồng chí Bắc Sơn [bí danh của tôi lúc đó], đồng
chí từ nay là Đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng [thực chất là Đảng Lao
động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi]. Lẽ ra tôi đưa điều lệ để đồng chí
nghiên cứu nhưng đồng chí là người hoạt động công khai trong Ban Chấp
hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn và Đại học Luật Khoa nên tôi bây giờ mới
phổ biến một số điều trong điều lệ để đồng chí biết”. Một buổi kết nạp
chẳng có lời thề thốt, cờ quạt gì cả.
Anh Nguyễn Ngọc Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu, là
người lớn lên trong một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi
tiếng Bảo Quốc. Thật ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết
tôi đã từng tham gia phong trào đấu tranh sinh viên học sinh Huế lúc tôi
còn học đệ nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa
Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc) vì
chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó nghĩ tôi là thành viên của Đoàn Thanh
niên Nhân dân Cách mạng Miền Nam.
Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh
nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong
tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính
quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo ban C
Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào
cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết học của các Giáo sư
Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Thuỳ Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzsche của
Nguyễn Đình Thi trước năm 1975. Gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ
điều, đậu hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên
đậu hạng bình thứ.
Những ngày ba tôi đến đón tôi ra thi, ông đã đi qua cánh đồng An Cựu
trong giá lạnh. Tôi không thể nào quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ
Người đã mất nhưng tôi không bao giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi
thành người trưởng thành pha một chút ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở.
Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã
được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?
Trong thời gian đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm văn nghệ, tôi thường hát bài “Tình quê hương”
thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan Thọ, lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn.
Gia đình của người phụ trách lao Thừa Phủ đứng trên bức tường có đường
đi bao quanh nhà tù để xem. Đúng là cái máu lãng mạn của đám sinh viên
học sinh chúng tôi lúc đó ngay trong tù cũng nổi dậy đùng đùng và có cô
con gái rất thích bài đó. Lý Thiện Sanh đùa: “Nó khoái mày rồi đó”.
Về anh Nguyễn Ngọc Phương – người phụ trách tôi sau này bị địch bắt,
đã hy sinh trong tù năm 1973. Năm ngoái, nhân ngày giỗ anh, tôi có kể
lại việc mỗi lần sinh hoạt với tôi xong anh đề nghị tôi hát bài “Trăng mờ bên suối”
của Lê Mộng Nguyên. Hát xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng ủy sinh
viên mà sao thích bài hát ướt át quá vậy?”. Anh cười buồn và nói: “Chúng
ta chiến đấu xét đến cùng là vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất
hay về con người thì sao mình không thích được!”.
Nghe anh tôi càng cảm phục người đồng chí phụ trách tôi và hôm giỗ anh tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối”
để cúng anh. Sau đó, chị Cao Thị Quế Hương có vẻ trách tôi vì cho rằng
anh Phương không thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn và im lặng.
Tôi đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…
2. Vấn đề đa nguyên, đa đảng
Có thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ
nghĩa xã hội khoa học ở trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc khu ủy Sài
Gòn-Gia Định. Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin mà tôi hiểu
được, có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở
kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như
thế đó.
Với những sai lầm kéo dài như chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi
ngược lại tất cả quy luật tự nhiên, cop-py mô hình kinh tế của Liên bang
Xô viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng đói kém rên xiết. Các
đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia đình, làm dòng
người vượt biên ngày càng nhiều và biết bao “thuyền nhân” phải chết tức
tưởi trên biển. Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu Luật, người đã
cùng tôi vào chiến khu và đã hy sinh vào ngày 11.10.1968 tại căn cứ Ban
Tuyên huấn Tuyên huấn cục Miền Nam cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần
Quang Long sau trận bom ác liệt của F105 của Mỹ. Tất cả điều đó là hệ
lụy thảm khốc của chủ thuyết “chuyên chính vô sản” trong tư duy bảo thủ,
giáo điều của những người lãnh đạo, nếu không gọi là tội ác thì cũng
không thể tha thứ được.
Trước sự rên xiết của người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng
và sự gắn bó với dân đã nhận ra được sai lầm dẫn đến chủ trương “Đổi
Mới”, chấp nhận kinh tế có nhiều thành phần trong đó có kinh tế cá thể.
Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế khác nhau
trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau thì tất yếu họ
phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Đó là quy luật tất
yếu: không thể không đa nguyên đa đảng được. Như vậy điều 4 Hiến pháp
hiện nay là đi ngược lại với sự vận động của thực tiễn, cản trở sự phát
triển của đất nước. Nếu Đảng cộng sản chấp nhận đa đảng thì sẽ tạo ra
cho mình có sức kháng thể, tạo cơ may thoát được tình trạng quan liêu,
tham nhũng làm ruỗng nát như hiện nay. Tôi hi vọng sẽ có những vị lãnh
đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam dám chấp nhận thách thức này:
Các Đảng, tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với Đảng Cộng sản Việt
Nam trong các cuộc bầu cử hợp pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như
Campuchia đã làm.
Tôi thách bất cứ ai trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong Ban Tuyên
huấn của Đảng mà đứng đầu là ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban, vừa
là Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương trả lời luôn một cách công khai,
minh bạch với chúng tôi trên các diễn đàn mà không chơi trò “bỏ bóng đá
người” như thường sử dụng hiện nay.
Thực tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã tập hợp được những khuynh
hướng có chủ trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu
biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo Hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí
thức tiêu biểu ở trong Nam ngoài Bắc như nhà văn Nguyên Ngọc, các giáo
sư Hoàng Tụy, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm Duy Hiển, những trợ lý Tổng Bí
thư, Thủ tướng hoặc Đại sứ nhiều thời kỳ như ông Trần Đức Nguyên, Việt
Phương, Nguyễn Trung, v.v.; các nhà kinh tế có uy tín lớn như Lê Đăng
Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ trí thức kỳ cựu như Hồ Ngọc
Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Quốc Thái; và
các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một thời kỳ lẫy lừng trong phong
trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975 như Huỳnh
Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Văn Long (Năm Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ Đình
Nguyên, Cao Lập và biết bao con người tâm huyết khác. Trong đó có những
người, mặc dầu đời sống kinh tế đã khá giả, có những người là giàu có
nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả những tiện nghi của đời sống đã
dũng cảm chấp nhận mọi rủi ro, nguy hiểm cho bản thân mình cũng như gia
đình, dấn thân vào cuộc chiến đấu mới để tiếp tục thực hiện lý tưởng
thời trai trẻ của họ, cái lý tưởng đang bị phản bội, bị chà đạp, những
lời hứa tốt đẹp năm nào trong kháng chiến đã bị vứt bỏ. Ngoài ra còn cả
một lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình bao gồm những blogger, những sinh viên
đang có những hoạt động ở các trường Đại học hoặc nhiều tổ chức khác.
Tình hình trên cộng với thực tế hiện nay tôi biết nhiều đảng viên
đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng (giấy sinh hoạt bỏ
vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta, hàng trăm đảng viên, không tuyên
bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng
Dân chủ Xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị
Đảng Cộng sản bức tử phải tự giải tán.
Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này? Chủ
trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có
một văn bản pháp lý nào cấm điều này, mà nguyên tắc pháp lý là điều gì
luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm.
Đó là quyền công dân
chính đáng của chúng ta.
Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã
hội công dân, xã hội dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn cản
được. Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc
tài toàn trị hiện nay. Chẳng lẽ nhà nước này bắt bỏ tù tất cả chúng ta
sao? Chúng ta phải đấu tranh với phương châm công khai, minh bạch, ôn
hòa, bất bạo động, phản đối tất cả mọi hành động manh động, bạo lực
khiêu khích gây chiến tranh. Như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết đại khái
trong bất cứ cuộc chiến tranh nào người thất bại đều là nhân dân. Giờ
hành động đã đến. Không chần chừ, do dự được nữa.
3. Độc lập dân tộc đang bị thách thức!
Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp, đoàn kết
thực sự. Nhưng còn độc lập thì sao? Sau khi hy sinh biết bao xương máu,
nay Đảng và Nhà nước Việt Nam đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng
Trung Quốc, những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta và vào năm 1979 họ đã
xua quân tàn sát người dân Lạng Sơn và các tỉnh phía Bắc mà tên Đặng
Tiểu Bình xấc xược gọi là dạy cho Việt Nam một bài học.
Thật ra tổ tiên chúng ta, những tiền nhân thời xa xưa đã cho họ nhiều
bài học Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, v.v. Không biết tập đoàn
Tập Cận Bình có còn nhớ những bài học đó không? Riêng các vị lãnh đạo
Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thì dường như chưa thấy hết sức mạnh
của dân tộc Việt Nam nên quá “hiền lành” đối với một nước lớn nhưng rất
“tiểu nhân” (chữ nghĩa của các truyện Tàu), miệng thì xoen xoét nói về
“bốn tốt, mười sáu chữ vàng” trong lúc hành động thực tế là uy hiếp, săn
đuổi, bắt bớ một cách vô nhân đạo các ngư dân Việt Nam đang hành nghề
trong ngư trường truyền thống của mình, hoặc hèn hạ cắt đứt cáp các tàu
thăm dò dầu khí của chúng ta.
Thế mà phản ứng của lãnh đạo Việt Nam thì quá nhu nhược: chỉ là lời
phản đối lặp đi lặp lại nghe quá nhàm tai và khó chịu của người phát
ngôn viên Bộ Ngoại giao. Đến nỗi có những vụ việc lớn cũng không dám
thực hiện một việc bình thường trong quan hệ quốc tế là triệu tập đại sứ
Trung Quốc ở Hà Nội để trao công hàm phản đối, chứ không chỉ là đưa
công hàm đến toà đại sứ. Vậy thì độc lập cái gì? Hẳn nhiên là chúng ta
không dựa vào nước này chống các nước khác nhưng thực tế quốc tế hiện
nay rất thuận lợi cho chúng ta liên kết với các nước dân chủ để đấu
tranh chống thủ đoạn bành trướng của Trung Quốc về Biển Đông.
Tôi rất mừng nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị
Shangri-La chống lại nền chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân
đạo đối với ngư dân Việt Nam. Trả lời phỏng vấn một thiếu tướng Trung
Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ
ràng đây là cú đấm đích đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn
quốc tế. Tôi càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý kiến của cá nhân
Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ
đạo nào của Bộ Chính trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài viết
về vấn đề này đã hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến năm lần.
4. Vấn đề Dân chủ, tự do và hạnh phúc
Thực chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong thời kỳ
kháng chiến hoặc trước 1975 Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động để đấu
tranh giành quyền sống. Đây là vấn đề về con người.
+ Về dân chủ thì đã quá rõ. Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi
thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng
hòa với tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập và
kiểm soát lẫn nhau. Phải có một nền tư pháp độc lập thì mới có thể
chống tham nhũng hiệu quả. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và
thông qua Hiến pháp mới. Sau đó thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ để bầu
quốc hội lập pháp theo đúng các nguyên tắc mà học giả Jeane Kirkpatrick
đã tổng kết: “Phải có các tính chất cạnh tranh, định kỳ, phổ thông, bỏ
phiếu kín”. Đảng Cộng sản phải thông qua cuộc bầu cử tự do, bình đẳng
như vậy mới trở thành Đảng cầm quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân
một cách thuyết phục.
Tôi nghĩ trong một thời gian dài Đảng Cộng sản vẫn là một lực lượng
chính trị mà không có bất cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được. Các
nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản cần tự tin điều đó. Dần dần các đảng đối lập
sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm vụ như một kháng thể trong một cơ
thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực lượng đối lập mà cứ duy
trì thể chế “toàn trị độc đảng” thì tham nhũng, cửa quyền, xâu xé giữa
các nhóm lợi ích đang kết nối với quyền lực thành một thế lực mafia
khuynh loát toàn bộ hoạt động xã hội, đẩy đất nước vốn đang lâm vào cơn
bạo bệnh trở nên vô phương cứu chữa, chỉ còn chờ chết mà thôi.
+ Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của
con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (như cách
Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu nói). Không có tự do thì không thể có khoa
học, văn học, nghệ thuật, báo chí… thật sự. Do đó Hiến pháp 1946 đã qui
định những quyền tự do của con người. Đó là vấn đề quyền con người.
Nhưng giờ đây chế độ toàn trị đã phản bội lại Hiến pháp đó, tước đoạt
tất cả các quyền cơ bản mà Hiến pháp 1946 đã ghi, vất bỏ Tuyên ngôn Nhân
quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi nước có hoàn cảnh riêng, có vấn
đề nhân quyền riêng để lấp liếm cho sự phản dân chủ, phản tiến hóa của
họ. Họ không biết rằng đó là quyền cơ bản và phổ quát mà loài người đã
đấu tranh qua nhiều thế hệ mới có được.
Nhà văn Nguyễn Khải đã nói: “Khi đọc cuốn Bàn về tự do của Stuart Mill thì vỡ ra nhiều vấn đề”, và cuốn sách đó khơi nguồn cảm hứng cho ông viết bài tùy bút để đời: Đi tìm cái tôi đã mất. Nguyễn
Khải đã nhìn lại những gì mà ông đã trải nghiệm một cách sâu sắc với
một giọng văn nhẹ nhàng không hàm hồ nên rất thuyết phục. Đây là quyển
sách đã đi sâu vào tim óc của chế độ mà không thấy các vị “phê bình chỉ
điểm” (cách gọi mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà
văn Hà Nội, đối với Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong việc “bề
hội đồng” bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm “Mở miệng”) nào dám
phê phán, chửi rủa.
Các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản tại sao không suy nghĩ trong chế độ
thuộc Pháp lại có một thời báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho
đến nay chưa có thời kỳ nào có thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự
do gấp vạn lần” như bà Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan đã nói một
cách hàm hồ, thiếu suy nghĩ, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Báo chí thì
nở rộ Gia Định báo, Phụ nữ tân văn, Nam Phong, Phong hóa, Ngày nay…
với những học giả Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,… Văn học nghệ
thuật thì có cả một trào lưu thơ mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ,
Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi tiếng khác với nhiều bài
thơ bất hủ mà đến nay ai cũng thuộc nằm lòng. Về tiểu thuyết thì có
nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo…
Ngoài ra còn có hàng loạt nhà văn tài hoa khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài,
Lan Khai, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, v.v. Với Thanh Tịnh, tôi vẫn nhớ bài
“Tôi đi học” trong tập Quê mẹ của ông. “Hằng năm cứ
vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây
bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của buổi tựu
trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở
trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết
ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè
núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu
yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này
tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật
chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi
lớn: Hôm nay tôi đi học”. Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc rực
rỡ với các tên tuổi như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ
Linh, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương… Thế mà rồi Thanh Tịnh
cũng như một số nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khác không có nổi những tác
phẩm lớn mà họ ấp ủ khi phải sống trong sự ngột ngạt của chế độ toàn
trị, bóp nghẹt dân chủ và tự do.
Sau 1975, không khí vui vẻ, sum họp của những ngày đầu đã tạo hứng khởi để nhạc sĩ Văn Cao làm bài “Mùa xuân đầu tiên” với điệu valse dìu dặt. Nhưng tội nghiệp cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng “Từ đây người biết yêu người, từ đây người biết thương người, từ đây người biết quê người…”.
Cũng phải nói thêm rằng bài ca này cũng mấy năm bị cấm hát! Những năm
sau khi vào chơi với Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam ông đã nói
lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh chia lìa, vượt biên, đày đọa, tù tội
trong đó có người bạn văn chương của các ông đã làm ông chỉ biết trầm
ngâm bên ly rượu. Có một điều an ủi ông là vào Nam, vào Sài Gòn ông nghe
mọi người từ trẻ đến già đều hát “Mùa xuân đầu tiên”, “Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”, v.v. của ông.
Vấn đề là Đảng Cộng sản Việt Nam cần trả lại những gì của lịch sử,
của tiền nhân để lại. Việc đổi tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ Văn
Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn Đình Chiểu, v.v. là việc làm thiếu
suy nghĩ, nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp lên lịch sử, xúc phạm những
chiến sĩ tuy không phải là Cộng sản nhưng đã đấu tranh bảo vệ đất nước
trong các phong trào Cần Vương, Duy Tân.
Ngay trong lĩnh vực báo chí, tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh niên, báo của tổ chức Cộng sản làm ngày báo chí Việt Nam? Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày số báo đầu tiên của Gia Định báo năm
1865 làm ngày báo chí Việt Nam. Năm sau, một số nhà báo cùng chúng tôi
sẽ tổ chức ngày báo chí Việt Nam vào ngày 15-4. Còn Đảng Cộng sản và các
tổ chức của mình cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không
sao. Việc ai nấy làm. Thế thôi.
Tại Miền Bắc gọi là xã hội chủ nghĩa khi hòa bình mới lập lại, các
văn nghệ sĩ mà đặc biệt đi tiên phong là các nhà thơ, nhà văn quân đội,
tiêu biểu là Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm,… đã gây chấn động trong vụ
Nhân văn Giai phẩm. Có lẽ là những người trực tiếp chiến đấu chứng kiến
cảnh chết chóc của nhân dân trong chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục
chiến đấu để xây dựng một chế độ xã hội tự do dân chủ và tiến bộ xã
hội. Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ đấu tranh
quyết liệt đòi hỏi tự do sáng tác, đòi hỏi chính trị không được can
thiệp vào sáng tác của văn nghệ sĩ.
Nhà nước độc tài Đảng trị trong những năm đó thấy đây là nguy cơ đe
dọa của chế độ nên đã ra tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một cách không nương
tay. Công thần Nguyễn Hữu Đang, người đã làm lễ đài Độc lập năm 1946,
bị tù với vụ án ngụy tạo. Hữu Loan với lòng tự trọng của một người văn
nghệ sĩ cương quyết về quê thồ vác đá nuôi vợ con. Nguyên Hồng khảng
khái bỏ về Yên Thế nuôi heo để kiếm sống. Nguyễn Hữu Đang sau khi ra tù
sống những ngày tủi nhục phải góp nhặt bao thuốc lá làm hàng “đối lưu”
với ếch nhái, rắn rết của bọn trẻ chung quanh.
Năm 1989, tôi gặp Tiến sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp, người đã
theo Hồ Chí Minh về nước năm 1946. Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc đó,
bị cô lập đến nỗi học trò cũng không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quý
để sống qua ngày. Còn nhà triết học Trần Đức Thảo, khi tôi còn làm Phó
Chủ tịch thường trực Mặt trận Tổ quốc Thành phố HCM đã mời ông đến nói
chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên liền xem có công an theo dõi ông
không.
Tôi còn có những kỷ niệm đau đến xé lòng khi còn nằm trong hệ thống
chính trị của nhà nước toàn trị, lúc còn là Phó Chủ tịch thường trực Mặt
trận Tổ quốc Thành phố HCM và là đại biểu Hội đồng Nhân dân Thành phố
khóa 4, khóa 5. Có mấy việc tôi còn nhớ mãi:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ngày trở thành kiêu binh. Đâu đâu cũng vỗ
ngực xưng tên là “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Ngay cả
Hội trường của cơ quan dân cử như Hội đồng Nhân dân Thành phố mà
cũngchẳng thấy đất nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ thấy một khẩu hiệu to chần
dần [to đùng] “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Một số đại
biểu trong Hội đồng Nhân dân trong Đảng cũng như ngoài Đảng thấy chướng
mắt nhưng không dám nói. Họ đến nói với tôi. Tôi thông cảm họ. Trong Hội
đồng Nhân dân khóa 5, khi lên phát biểu ở Hội trường, tôi trầm giọng
nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân dân Thành phố, nhưng tôi
không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có Đảng Cộng sản muôn năm
thôi là sao? Đảng chỉ là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ quốc,
nhân dân thì làm gì có Đảng. Đảng phải đặt Tổ quốc lên trên hết, vì vậy
tôi đề nghị thay đổi khẩu hiệu này bằng Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Cả hội trường im phăng phắc. Nhưng ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu Đảng đã thay đổi bằng tên nước.
+ Tôi là Trưởng ban Văn hoá – Xã hội, Hội đồng Nhân dân Thành phố
khóa 5. Trong các kỳ họp Hội đồng Nhân dân Thành phố, các ban có bài
thẩm định khá công phu. Phải đi thực tế, làm việc với các ngành và sau
đó họp toàn ban để thông qua; Trưởng ban là người quyết định cuối cùng.
Tôi nhớ trong một kỳ họp, tôi thức suốt đêm sửa chữa, hoàn thiện văn bản
để phát biểu trước Hội đồng Nhân dân. Khi lên phát biểu, nhìn xuống thì
không thấy vị Phó Chủ tịch nào dự, kể cả Phó Chủ tịch phụ trách Văn hoá
– Xã hội. Thấy vậy tôi không đọc mà đề nghị ông Huỳnh Đảm, lúc đó là
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, cho các thư ký, trợ lý điện gấp cho các Phó
Chủ tịch, nhất là các Phó Chủ tịch phụ trách Văn hoá – Xã hội về dự họp.
Ban thẩm định chuẩn bị công phu để phân tích những vấn đề, nhất là
những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y
tế, thể dục thể thao, các vấn đề xã hội khác – những vấn đề có liên quan
thiết yếu đến đời sống nhân dân Thành phố. Khi thấy các Phó Chủ tịch
lục tục về họp tôi mới phát biểu bản thẩm định của Ban. Đây là lần đầu
tiên các phóng viên báo chí thấy việc này nên rất khoái. Từ đó, kỳ họp
nào các Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cũng đều có mặt trừ một số Phó Chủ
tịch có lý do chính đáng. Cái bệnh chỉ coi trọng Đảng, Thành ủy, xem
thường Hội đồng Nhân dân đã vào máu các vị quan chức của chúng ta.
+ Việc thứ ba là cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của Chủ
tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Võ Viết Thanh và tôi về việc có nên dẹp
chợ hoa Nguyễn Huệ hay không? Cuộc đấu khẩu gay gắt đến nỗi Chủ tịch Võ
Viết Thanh nói đại ý nếu đồng chí Đằng thấy Đảng chật hẹp quá thì xin ra
khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó là chuyện mà tôi và anh sẽ nói
trong Đảng, còn đây là Hội đồng Nhân dân. Giữa lúc có nhiều đại biểu
đồng ý với tôi, trong đó có Trần Văn Tạo, Ủy viên Thường vụ Thành uỷ,
Phó Giám đốc Công an Thành phố, Phạm Phương Thảo, Ủy viên Thường vụ
Thành uỷ, Phó Chủ tịch phụ trách Văn hoá – Xã hội Uỷ ban Nhân dân Thành
phố thì chủ tọa kỳ họp lại được tin ban Thường vụ Thành ủy họp và đã
đồng ý dẹp chợ hoa Thành phố. Tôi cương quyết đề nghị phải có nghị quyết
riêng về vấn đề này, nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua nghị quyết ở
Hội đồng Nhân dân Thành phố. Tuy đấu tranh gay gắt như vậy nhưng đối với
anh Võ Viết Thanh tôi vẫn tôn trọng tính trung thực, quyết đoán của
anh.
Lúc đó tôi với tư cách đại biểu Hội đồng Nhân dân Thành phố có phối
hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban quản lý thị trường Thành phố để tố
cáo những tiêu cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh Hùng Vương. Phối hợp
với cuộc đấu tranh này có anh Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên Thường vụ Quận
ủy Quận 6, Trưởng ban Tuyên huấn Quận 6. Thắng cũng là dân phong trào
sinh viên. Không hiểu sao sau đó có một văn bản có danh sách 12 người
gọi là điệp báo của Cục tình báo Trung ương Mỹ trong đó Nguyễn Văn Thắng
nằm ở số 7. Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết mới về làm Phó Bí thư thường
trực của Trung ương. Tôi gặp anh Nguyễn Minh Triết và trình bày với anh
về vấn đề này thì anh đề nghị tôi không can thiệp nữa vì danh sách đã có
dấu đỏ của Đặc ủy tình báo Trung ương của Mỹ. Trước đó có người biết
chuyện ngụy tạo danh sách này và nói danh sách láo được đánh máy trên
giấy Bãi Bằng là giấy sản xuất sau 1975. Anh Nguyễn Minh Triết ghi nhận
nhưng Nguyễn Văn Thắng vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng.
Lúc ấy Quận 6 tính lấy lại nhà của Nguyễn Văn Thắng ở Bà Hom, Quận 6.
Tôi gặp Chủ tịch Võ Viết Thanh và đề nghị anh xem xét lại vấn đề này
thì anh nói với tôi một cách cương quyết: “Chuyện chính trị của Thắng
tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo đảm không ai lấy
được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại Bà Hom, Quận 6 như
cũ. Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh. Nhân đó tôi hỏi thăm tại sao
anh không đi học Cử nhân, Tiến sĩ như những người khác. Anh cười nói rất
Nam Bộ: “Tôi không chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ xin nghỉ làm để đi
học thật sự, không như những vị học giả mà bằng thật như hiện nay”. Từ
đó quan hệ giữa anh và tôi rất vui vẻ, không còn nhớ gì trận đấu khẩu
nảy lửa ở Hội đồng Nhân dân về vụ chợ hoa Nguyễn Huệ. Sau này anh bị
thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển Bên thắng cuộc nhà báo Huy Đức có nêu.
Tôi nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ
này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói
láo, tránh né đấu tranh. Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó đi
để thực hiện một chủ trương cực kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan
Châu Trinh: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Cuối cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh toán,
tính sổ cuộc đời của mình, trang trải những món nợ còn lại để gửi các vị
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, để mong các vị hiểu ra mà có sự lựa
chọn con đường sống cho dân tộc. Hiện nay xu hướng chạy theo Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ nghĩa xã hội đã lạc điệu, không còn phù hợp nữa và đã sụp
đổ tan tành ở ngay quê hương Xô Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên
thế giới về dân quyền, dân sinh, dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo
vệ môi trường. Nghĩa là đây là cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người,
vì con người chống lại các thế lực phản động đang âm mưu nô dịch nhân
dân, phá hoại môi trường vì những lợi ích kinh tế ích kỷ của các tập
đoàn, lũng đoạn nhà nước.
Tôi không tin lắm, nhưng dù sao thì vẫn cố hy vọng một số nhà lãnh
đạo Đảng và Nhà nước sớm thấy tình hình và xu thế phát triển hiện nay để
đặt lợi ích của Đất nước, Tổ quốc lên trên hết mà có một giải pháp hợp
lý, không vì lợi ích và sự tồn tại của Đảng, của chế độ mà đi ngược lại
xu thế phát triển của thời đại hiện nay.
Tôi nghĩ, chúng ta hiện nay cùng có trách nhiệm phải cương quyết đấu
tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ, tôn trọng và thực
hiện lý tưởng của biết bao thế hệ cha anh chúng ta về một nước Việt Nam
hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, văn minh và giàu mạnh. Xã hội công
dân một khi mạnh lên sẽ có đủ sức kìm hãm, ức chế các khuynh hướng độc
tài của một nhà nước toàn trị. Trước mắt là phải “chấn dân khí” để không
còn sợ hãi các thế lực tàn bạo, không sợ bắt bớ, tù đày. Sau đó là
“khai dân trí” và “hậu dân sinh”.
Bài viết này cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những nhân
sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ, các bạn thanh niên, sinh viên, học sinh mà
tôi đã quen hoặc mới quen, để khẳng định một điều: với lòng tự trọng
của một công dân một nước có lịch sử hào hùng chúng ta phải hành động.
Không nên ngồi tranh luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa đứng bên
này hay bên kia. Vì thật ra cả một bộ phận loài người trong đó có người
Việt Nam khát khao với một xã hội tốt đẹp hơn, chống lại cái ác, cái
xấu nên đã có thời gian dài nuôi ảo tưởng về đường lối xã hội chủ nghĩa
theo mô hình xô viết Stalin của Đảng Cộng sản.
Trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận thức một số
vấn đề sống còn của đất nước nhưng hiện nay tình hình trong nước và trên
thế giới đã thay đổi, vì vậy chúng ta phải nhận thức lại. Nhận thức lại
và dấn thân hành động cho cuộc chiến đấu mới. Đừng loay hoay những
chuyện đã qua mà làm suy yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy để con cháu
chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch sử. Còn chúng ta trước mắt là hành
động, hành động và hành động. Điều này tôi nói một lần rồi thôi…
Viết trong những ngày nằm bịnh.
L. H. Đ.
-Nguyên phó TTK Ủy ban TƯ LM các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam
-Nguyên phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố.HCM (từ 1989-2009)
-Đại biểu HĐND Thành phố khóa 4, khóa 5
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment