4/05/2013
Tống Văn Công
Cố Thủ tướng Võ
Văn Kiệt có lần nói “Ngày 30-4 có hàng triệu người vui, nhưng cũng có
hàng triệu người buồn”. Câu nói phản ánh hoàn cảnh lịch sử khiến cho
“đất nước đã thống nhất mà lòng người còn ly tán”. Ba mươi tám năm qua
hố ngăn cách đã hẹp lại theo chiều rộng, nhưng vẫn còn đôi chỗ hun hút
sâu, có thể thấy ở hai thành phố Hoa Kỳ (Garden Grove và Orange County)
nơi có đông người Việt nhất, đã ra nghị quyết không hoan nghênh quan
chức Việt Nam đến thăm, vì e có “rủi ro về an toàn” và “phải trả dịch vụ
cảnh sát cần thiết”. Ở trong nước, cũng dễ thấy không ít biểu hiện
thiếu đồng thuận. Đó là điều cần phải mau chóng khắc phục, bằng cách mở
nhiều kênh hòa giải, tìm sự đồng thuận, để đại đoàn kết toàn dân tộc,
tạo nên sức mạnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Người Việt Nam có lòng yêu nước, yêu quê hương sâu sắc, mong muốn có
cuộc sống yên bình và giản dị “tay làm hàm nhai” và tôn trọng “mỗi cây
mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Tìm sự đồng thuận ở con người và xã hội Việt
Nam không quá khó, họ chỉ bất bình khi bị áp đặt chuyện không bình
thường: Cải tạo công thương nghiệp, nông nghiệp họ cảm nhận sự bất
thường nên ùn ùn bỏ ruộng, bỏ quê. Khi có khoán 10, khoán 100 là họ hăng
hái biến đất nước thành quốc gia xuất khẩu lương thực hàng đầu thế
giới. Do đó để có đồng thuận, trước hết phải hòa giải, tức là tháo gỡ
những vướng mắc trong lòng người, làm cho họ thấy lợi ích của mình chắc
chắn sẽ được bảo đảm trong lợi ích chung của đất nước và nếu mình nỗ lực
đạt hiệu quả nhiều hơn cho đất nước thì mình cũng có phần được tăng
lên. Sự đồng thuận sẽ được nâng lên khi nhận thức mới được nâng lên, mỗi
người sẵn sàng chịu thiệt phần mình khi đất nước gặp khó khăn để có
ngày mai tốt đẹp. Nhìn lại một vài sự kiện đáng nhớ trong quá trình 38
năm hòa giải, đồng thuận có thể rút ra nhiều điều bổ ích.
Giữa lúc giới trí thức đang băn khoăn giữa chuyện ra đi hay ở lại với
chế độ mới thì xảy ra sự kiện bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, ở bệnh
viện Từ Dũ, từ chối đơn bảo lãnh sang Mỹ của chồng, để ở lại trị bệnh
cứu giúp đồng bào sau chiến tranh. Từ việc này khiến mọi người tò mò tìm
hiểu và thấy ra đã có mối quan hệ rất tốt đẹp giữa các bác sĩ “Việt
Cộng” với bác sĩ, y tá chế độ cũ. “Con đường chị đã chọn” (tựa
đề bài viết về chị Phượng) có tác động rất lớn cho sự hòa giải, góp phần
trấn an đông đảo trí thức, nhất là ngành y, để họ quyết định ở lại xây
dựng cuộc sống mới. Cũng khoảng thời gian ấy những sĩ quan chế độ cũ
không thể tin mình sẽ tìm được chỗ đứng trong xã hội mới. Giữa lúc đang
nhấp nhổm lo âu, họ bỗng nghe tin trung úy quân y Nguyễn Chấn Hùng vừa
rời trại cải tạo đã được nhận vào Trường Đại học Y và Bệnh viện Bình
Dân. Ba mươi tám năm qua, hai bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng và Nguyễn
Chấn Hùng đã khẳng định tài năng và tâm huyết trong công việc của mình
và nhận được sự tin cậy tuyệt đối trong chế độ mới. Chắc chắn hai điển
hình này đã góp phần không nhỏ cho hòa giải, tạo nên sự đồng thuận xã
hội, nhất là trong giới trí thức, sĩ quan chế độ cũ ở phíaNam.
Năm 2000, một sự kiện đáng nhớ là sự trở về của nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi
được nhà báo Lưu Trọng Văn mời ăn bữa cơm đón mừng ông. Hôm đó tôi hỏi
động lực nào giúp ông trở về, ông đáp: “Tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện trở
về sau khi đọc bài thơ “Về thôi” của anh Lưu Trọng Văn viết tặng tôi.
Nhưng điều chủ yếu là nhận thấy chính sách văn hóa văn nghệ nay cởi mở
rất nhiều so với trước, đã cho phép được hát tình ca. Nguyện vọng cao
nhất của nhạc sĩ là có nhiều người đàn hát tác phẩm của mình. Một trong
những lý do ra đi của tôi là vì bài Bên cầu biên giới bị cấm
phổ biến”. Như vậy nhạc sĩ Phạm Duy muốn được trở về là do có sự đồng
thuận về văn hóa. Một nhân vật quan trọng khác là nguyên Phó Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa, tướng Nguyễn Cao Kỳ về nước năm 2004. Nhiều lần trả
lời phỏng vấn vì sao một người suốt đời chống cộng như ông lại vui vẻ về
nước cộng tác với chế độ vốn đối nghịch với mình, ông Kỳ cho rằng
nguyện vọng của cả dân tộc là thống nhất đất nước, phía của ông thua
trận không thực hiện được thì phải biết tôn trọng những người chiến
thắng. Nhưng ông cho rằng điều quan trọng là hiện nay nước ta đã theo cơ
chế thị trường, chấp nhận nhiều thành phần kinh tế, do đó đang tạo điều
kiện thuận lợi để đất nước phát triển và hội nhập quốc tế. Ông nói,
mình muốn đóng vai trò hòa giải dân tộc, để góp phần kêu gọi đầu tư xây
dựng đất nước. Như vậy có thể hiểu sự hòa giải thành công với những
người như ông Nguyễn Cao Kỳ và rất đông doanh nhân trong và ngoài nước,
chủ yếu là sự đồng thuận về tự do kinh tế. Sự đồng thuận đó đã tạo nên
những điều mà báo chí thế giới dự báo về “con rồng Việt Nam”, khi nước
ta thu hút vốn đầu tư mạnh mẽ cả trong và ngoài nước, dẫn đầu chỉ tiêu
xóa đói giảm nghèo của Liên Hiệp Quốc, vượt qua ngưỡng nước nghèo, bước
vào nước có thu nhập trung bình thấp. Ngay lúc ấy, đã có sự cảnh báo của
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về “cái bẫy của thu nhập trung
bình”. Mấy năm qua, cho thấy sự cảnh báo ấy là có căn cứ, bởi nền kinh
tế bị khủng hoảng từ sự trì kéo chủ quan, việc thực hiện tái cơ cấu nền
kinh tế giẫm chân tại chỗ quá lâu, nạn tham nhũng đang thách thức một
cách lì lợm, nạn khiếu kiện đất đai vượt cấp chưa có điểm dừng. Trong
khi đó từ Biển Đông tiếng gầm rú của tàu chiến, thậm chí lác đác có kèm
theo tiếng súng đang uy hiếp sự lao động bình thường của hơn 4 triệu ngư
dân Việt Nam, những “cột mốc sống” chủ quyền trên biển. Hơn lúc nào hết
đất nước đang đòi hỏi phải khẩn trương tìm lời đáp cho hòa giải, đồng
thuận để đại đoàn kết toàn dân tộc đem lại sức mạnh cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lời giải thực ra đã có: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới
kinh tế theo lộ trình thích hợp” (Văn kiện Đại hội 11, trang 99), “Phát
huy dân chủ và đại đoàn kết dân tộc” (Văn kiện, trang 33). Công việc cụ
thể để thực hiện vấn đề lớn lao đó cũng đã có: Góp ý xây dựng Hiến pháp
1992 sửa đổi, và thực hiện Cải cách tư pháp đến năm 2020 để có một nền
tư pháp độc lập. Làm tốt các việc trên chính là tìm ra sự đồng thuận
chính trị, mở ra một thể chế dân chủ tự do mà lâu nay còn bị ách tắc như
chưa thực hiện được quyền lập hội, quyền biểu tình… mà Hiến pháp 1992
đã ghi nhận. Đồng thuận về chính trị sẽ là cái gốc để chúng ta tiếp tục
phát huy sự đồng thuận về kinh tế và văn hóa cao hơn nữa. Các quyền tự
do, quyền con người nên được hiểu theo nội dung phổ quát của nhân loại
văn minh, tránh tìm cách quẩn quanh để bó hẹp lại. Lâu nay, có quan điểm
chỉ đạo “thông tin phải theo định hướng”, nhưng ở trường hợp góp ý sửa
đổi Hiến pháp 1992, lãnh đạo đã có chủ trương là không có vùng cấm, do
đó, những vấn đề còn có nhận thức khác nhau rất nên tổ chức cho tranh
luận công khai trên các phương tiện truyền thông, để tạo ra đồng thuận
từ sự tự giác nhận thức, tránh tình trạng nói một chiều, gây ra kiểu
đồng thuận áp đặt, mà kinh nghiệm cho thấy kiểu dân chủ hình thức ở một
số quốc gia làm tiềm ẩn, tích tụ sự bất bình gây hậu quả rất xấu trong
tương lai.
T. V. C.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Từ: Bauxite Việt Nam
No comments:
Post a Comment