28/03/2014
Chẳng ngạc nhiên khi chuyên gia Nhật Bản khẳng định "Việt Nam đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình"
Nguyễn Hữu Quý
Ngày 26.3.2014, tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn đăng bài: “Chuyên gia Nhật: Việt Nam đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình" (1), sau khi đưa ra những số liệu mang tính khoa học, và lập luận chắc chắn theo cách làm của người Nhật, cuối bài báo có đoạn: “Bài phát biểu của giáo sư Ohno đã không nhận được sự phản biện nào từ các học giả Việt Nam tại hội thảo”.
Thật
dễ hiểu, các chuyên gia tham dự Hội thảo còn biết nói gì nữa với một
thực trạng như thế, được dẫn chứng bởi một chuyên gia của Nhật.
Một
thời, khi mà tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm vào khoảng 8-9%/ năm
(2000-2005 và một vài năm sau nữa), báo chí Việt Nam cứ tung hô nền kinh
tế Việt Nam hóa rồng, hóa hổ... Cũng trong thời gian ấy, tôi không thấy
có bài báo nào của Việt Nam cảnh báo, và phân tích bản chất tăng trưởng
của GDP thời kỳ đó (Ở Việt Nam là thế, các GS-TS kinh tế miệng cứ câm
như hến, vì nói ra lại đụng đến sự lãnh đạo của Đảng); để rồi hôm nay,
trước sự kết luận của chuyên gia người Nhật, không ai có thể bác bỏ được
kết luận của ông, rằng “Việt Nam đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình".
Có
lẽ nhiều người đồng ý với vị chuyên gia Nhật khi ông nói nguyên nhân
tăng trưởng GDP của Việt Nam thời kỳ cực thịnh, đó là nhận xét:
“Tuy
nhiên, sự tăng trưởng này được thúc đẩy chủ yếu bằng bong bóng tại các
thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán chứ không phải là tăng
năng suất lao động”.
Một cách tổng quát,
có 3 yếu tố để phản ánh tỷ lệ tăng trưởng GDP của một quốc gia, đó là:
Lao động; Vốn (chi đầu tư XDCB, chứng khoán, ngân hàng), và năng suất
lao động toàn xã hội (hay còn gọi là: Năng suất các yếu tố tổng hợp
TFP).
Trong một bài viết có tựa đề: “Những lời gan ruột của Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư” (2), đăng trên báo Đất Việt ngày 13.01.2014, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư, ông Bùi Quang Vinh, cho rằng, tăng trưởng của Việt Nam “chỉ nhờ khai thác tài nguyên”, và dẫn chứng:
“Lao
động của VN thời kỳ 2006-2011 đóng góp khoảng 25,81% vào tăng trưởng
GDP, yếu tố vốn đóng góp 57,54%, còn TFP chỉ đóng góp 16,95%. Thậm chí
có thời kỳ TFP đóng góp rất thấp. Năm 2008, lao động tác động đến tăng
trưởng là 26,03%, vốn tới 87,87%% nhưng TFP chỉ có 13,6%.
Thực
tế trên cho thấy nếu muốn tăng trưởng thì VN phải đổ vốn ra. Vì thế,
năm 2008 VN đã đổ ra một lượng vốn khổng lồ (cả tín dụng lẫn đầu tư) nên
tốc độ tăng trưởng cao song đến 2010 phải lĩnh hậu quả là lạm phát lên
tới 18,13%.
Sự đóng góp rất hạn
chế của yếu tố TFP cho thấy việc tăng trưởng hoàn toàn không do năng
suất, hiệu quả của thể chế, khoa học công nghệ, quản trị mà chủ yếu phụ
thuộc vào tăng quy mô nguồn vốn, số lượng lao động và lượng tài nguyên
thiên nhiên được khai thác”.
Để hiểu
về TFP, sau đây là sơ đồ phản ánh sự cấu thành nên yếu tố TFP, và qua
đó cũng cho thấy, với sự yếu kém trong quản lý do “LỖI HỆ THỐNG” với một
đảng độc quyền lãnh đạo, đã làm cho yếu tố TFP của Việt Nam không thể
thay đổi được, cũng như rất khó có điều kiện để thay đổi, và việc “Việt Nam đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình", như là một tất yếu.
Nguồn: chicuctdcbinhthuan.gov.vnhttp://chicuctdcbinhthuan.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=4372&Itemid=399
Việt Nam có thể thoát ra được “bẫy thu nhập trung bình” được không?
Ở
các nươc có nền kinh tế thị trường đúng nghĩa, một khi nền kinh tế đã
rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” thì cũng đã rất khó khăn để thoát ra
được, và nếu có được thì cũng phải tốn nhiều thời gian, với sự chuyển
đổi cơ cấu kinh tế và quản lý vốn đã rất uyển chuyển… Huống chi, Việt
Nam, với nến “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, về bản
chất là duy ý chí, mơ hồ, phi khoa học…, và với tất cả những thảm họa đã
phơi bày, thì có thể khẳng định: Dưới sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì Việt Nam không bao giờ thoát ra được bẫy thu nhập trung bình.
Đâu là giải pháp?
Rõ ràng là, việc được tham gia vào “Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương-TPP”, đang như là một giải pháp cứu cánh cho không chỉ nền kinh tế mà còn là hy vọng cho cả nền chính trị của Việt Nam (?!).
Cũng trên tờ Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 26.3.2014, trong bài: GS Harvard dự báo GDP Việt Nam sẽ cao hơn nếu tham gia TPP (3), giáo
sư Robert Z.Lawrence, trường Harvard Kennedy School tại Hội thảo quốc
tế về “Cải cách Kinh tế vì tăng trưởng bao trùm và bền vững”, tổ chức
hôm 24-25.3.2014 tại Hà Nội, nhận định: “Việt Nam sẽ được hưởng tăng
trưởng kinh tế và thương mại rất lớn khi tham gia Hiệp ước xuyên Thái
Bình Dương TPP. Cụ thể là vào năm 2025, GDP của Việt Nam nếu tham gia
TPP sẽ cao hơn 13,6% so với trường hợp không tham gia TPP”.
Chính
vì thế, việc được kết nạp là thành viên của TPP trong năm 2014 đang như
là mục tiêu lớn của Chính phủ Việt Nam. Vì vậy, trong cuộc gặp gỡ với
Tổng thống Mỹ Barak Obama, hôm 25.3 vừa rồi, tại The Hague-Hà Lan, nhân
“Hội nghị Thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ ba”(4), thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng “khẳng định quyết tâm cùng Mỹ và các thành viên sớm kết thúc
đàm phán TPP theo tinh thần quan tâm thỏa đáng đến lợi ích và sự chênh
lệch về trình độ phát triển. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề nghị Mỹ
quan tâm thỏa đáng tới các lợi ích của Việt Nam và hỗ trợ Việt Nam trong
đàm phán, đề nghị Mỹ sớm công nhận quy chế thị trường với Việt Nam”.
Vài lời cuối:
1.
Việt Nam thực sự là nước đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình, còn việc
có muốn thoát ra hay không thì lại không phải do Nhân Dân Việt Nam quyết
định, mà phần quyết định là do Đảng cộng sản Việt Nam. Một khi vẫn độc
quyền lãnh đạo, và vẫn giữ nguyên đường lối “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” mơ hồ, phản quy luật phát triển… thì không bao
giờ Việt Nam thoát ra được.
2. Cho dù có được Mỹ
và các thành viên “hạ cố” ưu tiên để được là thành viên của TPP trong
năm 2014 đi chăng nữa, thì đó mới là chỉ là điều kiện cần cho hy vọng
tăng trưởng kinh tế, mà chưa phải là điều kiện đủ. Việc chủ trương cổ
phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) cần phải thực hiện quyết liệt,
triệt để theo kế hoạch mà Chính phủ đã đề ra, để cùng với việc được gia
nhập TPP mới phần nào giúp nền kinh tế Việt Nam thoát ra khỏi nguy cơ
sụp đổ trong vài năm tới.
27.3.2014
N.H.Q.
(1) Chuyên gia Nhật: "Việt Nam đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình"
(2) Những lời gan ruột của Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư
(3) GS Harvard dự báo GDP Việt Nam sẽ cao hơn nếu tham gia TPP
(4) Việt Nam hoàn thiện pháp luật về hạt nhân
Chuyên gia Nhật: "Việt Nam đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình" |
|
Tư Hoàng | |
Thứ Tư, 26/3/2014, 16:06 (GMT+7) |
(TBKTSG Online) - Bẫy thu nhập trung bình đã thực sự bao trùm Việt Nam,
chứ không còn là nguy cơ xa xôi như nhiều người cảnh báo, chuyên gia
Nhật Bản về Việt Nam, giáo sư Kenichi Ohno đã khẳng định như vậy.
Giáo sư Ohno, người có hơn 20 năm gắn bó với Việt Nam và có nhiều
nghiên cứu về các vấn đề kinh tế ở Việt Nam, nói: “Ngày nay, sau một vài
năm đạt mức thu nhập trung bình thấp, bẫy thu nhập trung bình không còn
là một nguy cơ xa xôi, mà đã trở thành thực tế ở Việt Nam”.
Nhận xét của giáo sư Ohno được đưa ra trước nhiều học giả Việt Nam tại hội thảo “Khởi tạo động lực tăng trưởng mới: Tăng cường liên kết doanh nghiệp FDI – nội địa” do trường Đại học kinh tế Quốc dân, và Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức ngày 26-3 tại Hà Nội.
Giáo sư nhớ lại, các thảo luận về bẫy thu nhập trung bình đã được khởi động ở Việt Nam năm 2008, khi quốc gia đạt mức thu nhập trung bình đầu người 1.070 đô la Mỹ, nhằm cảnh báo cho các doanh nghiệp và quan chức “đang tự mãn” với mức tăng trưởng cao trong quá khứ.
Tuy nhiên, các cảnh báo đó đã không mang lại nhiều tác dụng. “Đã có nhiều bằng chứng cho thấy đất nước đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình”, ông nói.
Theo giáo sư Ohno, có 5 triệu chứng cho thấy Việt Nam đang mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình.
Thứ nhất, tăng trưởng chậm lại. Ông phân tích, sau khi khắc phục khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2000-2005. Lúc đó, tinh thần của người tiêu dùng và nhà kinh doanh rất cao, và Chính phủ tỏ ra đã hài lòng.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng này được thúc đẩy chủ yếu bằng bong bóng tại các thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán chứ không phải là tăng năng suất lao động.
Sau năm 2006, khi tăng trưởng đi xuống với nhiều biến động, tâm trạng toàn xã hội trở nên ảm đạm. Tăng trưởng giảm xuống còn 5-6%, và đất nước trải qua một giai đoạn với bất động sản trầm lắng, lạm phát, nợ xấu.
Ông nhận định ở một nền kinh tế tương đối trẻ với tiềm năng lớn cho phát triển thì tăng trưởng dưới 5-6% cần được xem như một cuộc khủng hoảng xã hội.
Theo giáo sư, năng suất sản xuất mờ nhạt là biểu hiện rõ ràng thứ hai chứng tỏ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Ông dẫn ra nhiều số liệu cho thấy, hệ số ICOR tăng (hệ số sử dụng vốn, ICOR cao nghĩa là đồng vốn bỏ ra lớn nhưng hiệu quả không cao) và sự đóng góp của TFP (chỉ tiêu đo lường năng suất của đồng thời cả “lao động” và “vốn” cho nền kinh tế) vào tăng trưởng giảm, trong khi nguồn vốn đầu tư tăng cao; và khẳng định: “Đây là dấu hiệu rõ ràng của tăng trưởng dựa trên đầu tư với hiệu quả sử dụng vốn thấp”.
Mặt khác, theo giáo sư, trong những năm gần đây, tăng lương tại Việt Nam đã lớn hơn nhiều so với mức tăng năng suất lao động, làm chi phí sản xuất trở nên đắt đỏ hơn.
Từ năm 2009-2012, năng suất lao động tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 3,2% cho toàn bộ nền kinh tế, và 5,1% cho khu vực sản xuất. Trong khi đó, tiền lương danh nghĩa tăng với tỷ lệ trung bình 25,9% năm cho toàn bộ nền kinh tế, và 23,5% cho sản xuất.
Từ những dữ kiện trên (của Quốc hội Việt Nam), giáo sư Ohno cho rằng khả năng cạnh tranh về chi phí bị mất đi với tỷ lệ hàng năm 22,7% cho toàn bộ nền kinh tế, và 18,3% cho sản xuất.
Sự mất giá của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ trong giai đoạn trên với tỷ lệ 5,5% mỗi năm là quá nhỏ để bù đắp cho tốc độ mất khả năng cạnh tranh của nền kinh tế mỗi năm là 22,7%.
Ngoài những dấu hiệu trên, theo giáo sư Ohno, thiếu hụt dịch chuyển cơ cấu, năng lực cạnh tranh trong bảng xếp hạng không có dấu hiệu tăng, và xuất hiện các vấn đề do tăng trưởng gây ra cũng là các bằng chứng hiển nhiên để khẳng định Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Bài phát biểu của giáo sư Ohno đã không nhận được sự phản biện nào từ các học giả Việt Nam tại hội thảo.
Phó hiệu trưởng Trường Đại học kinh tế Quốc dân Trần Thọ Đạt nhận xét, dư địa cho tăng trưởng theo chiều rộng của mô hình kinh tế Việt Nam không còn, do vậy, muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, Việt Nam cần tạo ra động lực mới cho tăng trưởng.
Nhưng đây là điều khó khăn. Ông Đạt băn khoăn: “Những động lực mới cho tăng trưởng là gì? Làm thế nào để tạo ra động lực này?”.
Nhận xét của giáo sư Ohno được đưa ra trước nhiều học giả Việt Nam tại hội thảo “Khởi tạo động lực tăng trưởng mới: Tăng cường liên kết doanh nghiệp FDI – nội địa” do trường Đại học kinh tế Quốc dân, và Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức ngày 26-3 tại Hà Nội.
Giáo sư nhớ lại, các thảo luận về bẫy thu nhập trung bình đã được khởi động ở Việt Nam năm 2008, khi quốc gia đạt mức thu nhập trung bình đầu người 1.070 đô la Mỹ, nhằm cảnh báo cho các doanh nghiệp và quan chức “đang tự mãn” với mức tăng trưởng cao trong quá khứ.
Tuy nhiên, các cảnh báo đó đã không mang lại nhiều tác dụng. “Đã có nhiều bằng chứng cho thấy đất nước đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình”, ông nói.
Theo giáo sư Ohno, có 5 triệu chứng cho thấy Việt Nam đang mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình.
Thứ nhất, tăng trưởng chậm lại. Ông phân tích, sau khi khắc phục khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2000-2005. Lúc đó, tinh thần của người tiêu dùng và nhà kinh doanh rất cao, và Chính phủ tỏ ra đã hài lòng.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng này được thúc đẩy chủ yếu bằng bong bóng tại các thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán chứ không phải là tăng năng suất lao động.
Sau năm 2006, khi tăng trưởng đi xuống với nhiều biến động, tâm trạng toàn xã hội trở nên ảm đạm. Tăng trưởng giảm xuống còn 5-6%, và đất nước trải qua một giai đoạn với bất động sản trầm lắng, lạm phát, nợ xấu.
Ông nhận định ở một nền kinh tế tương đối trẻ với tiềm năng lớn cho phát triển thì tăng trưởng dưới 5-6% cần được xem như một cuộc khủng hoảng xã hội.
Theo giáo sư, năng suất sản xuất mờ nhạt là biểu hiện rõ ràng thứ hai chứng tỏ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Ông dẫn ra nhiều số liệu cho thấy, hệ số ICOR tăng (hệ số sử dụng vốn, ICOR cao nghĩa là đồng vốn bỏ ra lớn nhưng hiệu quả không cao) và sự đóng góp của TFP (chỉ tiêu đo lường năng suất của đồng thời cả “lao động” và “vốn” cho nền kinh tế) vào tăng trưởng giảm, trong khi nguồn vốn đầu tư tăng cao; và khẳng định: “Đây là dấu hiệu rõ ràng của tăng trưởng dựa trên đầu tư với hiệu quả sử dụng vốn thấp”.
Mặt khác, theo giáo sư, trong những năm gần đây, tăng lương tại Việt Nam đã lớn hơn nhiều so với mức tăng năng suất lao động, làm chi phí sản xuất trở nên đắt đỏ hơn.
Từ năm 2009-2012, năng suất lao động tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 3,2% cho toàn bộ nền kinh tế, và 5,1% cho khu vực sản xuất. Trong khi đó, tiền lương danh nghĩa tăng với tỷ lệ trung bình 25,9% năm cho toàn bộ nền kinh tế, và 23,5% cho sản xuất.
Từ những dữ kiện trên (của Quốc hội Việt Nam), giáo sư Ohno cho rằng khả năng cạnh tranh về chi phí bị mất đi với tỷ lệ hàng năm 22,7% cho toàn bộ nền kinh tế, và 18,3% cho sản xuất.
Sự mất giá của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ trong giai đoạn trên với tỷ lệ 5,5% mỗi năm là quá nhỏ để bù đắp cho tốc độ mất khả năng cạnh tranh của nền kinh tế mỗi năm là 22,7%.
Ngoài những dấu hiệu trên, theo giáo sư Ohno, thiếu hụt dịch chuyển cơ cấu, năng lực cạnh tranh trong bảng xếp hạng không có dấu hiệu tăng, và xuất hiện các vấn đề do tăng trưởng gây ra cũng là các bằng chứng hiển nhiên để khẳng định Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Bài phát biểu của giáo sư Ohno đã không nhận được sự phản biện nào từ các học giả Việt Nam tại hội thảo.
Phó hiệu trưởng Trường Đại học kinh tế Quốc dân Trần Thọ Đạt nhận xét, dư địa cho tăng trưởng theo chiều rộng của mô hình kinh tế Việt Nam không còn, do vậy, muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, Việt Nam cần tạo ra động lực mới cho tăng trưởng.
Nhưng đây là điều khó khăn. Ông Đạt băn khoăn: “Những động lực mới cho tăng trưởng là gì? Làm thế nào để tạo ra động lực này?”.
No comments:
Post a Comment