Khi nhìn ra thế giới, nói chung, chúng ta còn thua kém nhiều dân tộc khác trên thế giới, thế nên, xin miễn được đề cao người mình, những cái hay cái tốt mà nhiều người đã nói tới, mà hãy cùng nhau nhìn thẳng vào khuyết điểm của mình, để may ra có sửa chữa, thăng tiến hơn không.
Thấy người mà nghĩ đến ta, tôi thấy chúng ta phải quan tâm nhiều hơn
và đúng mức đối với vấn đề của dân tộc, vì rằng, nói chung dân tộc ta
kém xa các dân tộc tiến bộ khác trên thế giới. Còn lý do tại sao chúng
ta kém, chúng ta cần thẳng thắn nhìn vào sự thực. Đã có hằng trăm cuốn
sách khen ngợi người Việt rồi, nếu chúng ta tự mãn với những điều đó,
liệu chúng ta khá lên không, hay từ bao trăm năm qua vẫn thế? Văn hóa
Việt có những ưu khuyết điểm nào? Ai cũng biết một số ưu điểm, nhưng
phải biết khai thác ưu điểm và quan trọng hơn là nhìn thẳng vào khuyết
điểm lớn để sửa chữa ngay.
Ai chẳng tự ái, muốn bênh vực dân tộc mình, nhưng nhìn lại từ thời
hữu sử tới nay đã hơn 4.000 năm qua, chúng ta chỉ có một số thời gian
ngắn yên bình thịnh trị, còn hầu hết là chiến tranh, không nội chiến thì
ngoại xâm. Nội chiến vì chúng ta chia rẽ, còn ngoại xâm vì chúng ta ở
một vùng địa lý chính trị quan trọng mà lại không biết giữ. Tại sao dân
tộc ta cứ mãi mãi lầm than, khốn khổ như vậy?
Học giả Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam Sử Lược trang 6 đã viết:
“Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người
Việt có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn,
học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính
hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn
hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác chế nhạo.
Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn có sự hòa bình, nhưng mà đã
đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.”
Học giả Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong cuốn Đất Lề Quê Thói (Phong Tục Việt Nam) trang 68, cũng nhận xét rằng:
“Người mình phần đông thường ranh vặt, qủy quyệt, bộ tịch lễ phép mà hay khinh khi nhạo báng. Tâm địa nông nổi, khoác lác, hiếu danh…”.
Đại văn hào Lỗ Tấn của Trung Quốc đã từng ví người Hoa như ba con vật:
“Tàn bạo như Sư tử, gian xảo như Hồ ly, nhút nhát như Thỏ đế.”…
Không vì những ý kiến thẳng thẳn đó mà dư luận người Hoa cho rằng ông bôi bác hay phản bội dân tộc.
Tuy mỗi người nhìn và đặt vấn đề một cách khác nhau, nhưng họ có
chung niềm trăn trở và chúng tôi công nhận là họ đã can đảm nói lên
những điều xấu của người mình, là một trong những điều tối kỵ, ít ai dám
nói tới. Đôi khi chúng ta cần gạt bỏ tự ái để nhìn thẳng vào sự thật,
cố gắng sửa chữa để tiến thân, cho mình cũng như cho dân tộc. Tôi thấy
hơn bao giờ hết, đây là dịp người Việt thẳng thắn nhìn lại người mình,
cởi mở và dọn mình để mang tâm thức lớn, cùng nhân loại bước vào thế kỷ
21. Nói vậy chứ cũng đã trễ lắm rồi, bây giờ mà sửa soạn thì may ra vài
chục hay cả trăm năm sau mới bắt đầu có kết quả.
Người Việt có những tính tốt nào? Người Việt hiếu học ư, cũng hiếu
học đấy, nhưng vẫn chỉ là một số nào đó, một số lớn vẫn ít học, cho là
nghề dạy nghề, tức tùy tiện tới đâu hay tới đó. Mà đa số trong số hiếu
học ấy vẫn mang nặng tinh thần từ chương, quan lại, trọng bằng cấp từ
ngàn xưa. Họ học để tìm sự giàu có, phong lưu cho bản thân và gia đình
hơn là giúp đời. Họ được gọi là trí thức, nhưng chỉ biết tri thức chuyên
môn, hầu như họ sống cách biệt, không dính gì tới đại đa số đồng hương
mà họ cho là thấp kém.
Kiến thức tổng quát của họ là một mớ hời hợt, thường có được là qua những buổi trà dư tửu hậu, chứ không qua sách vở nghiêm túc.
Nói chi tới dân thường, có nhiều người cả năm không mua một cuốn sách,
một tờ báo. Họ chỉ thích nghe lóm và chỉ đọc sách báo khi có ai đó mua
thì mượn đọc ké thôi. Người mình lại suy nghĩ thiếu khoa học nên dễ tin,
đọc một bản tin trên báo hay nghe truyền miệng mà đã tin, nên dễ bị kẻ
xấu lừa.
Cứ nói người dân mình thích đọc sách và ham học lắm, nhưng tôi có cảm
tưởng không phải như thế. Thực ra, dân mình mê khoa bảng, kiếm chút
bằng để kiếm ăn. Sách in ra đa số nhận rất ít phản ứng… Việc đọc sách
chưa được xã hội hóa, hàng tháng không có thông tin về sách mới ra,
không giới thiệu, không phản hồi, không thống kê, giới viết và đọc không
hội họp….
Nhờ tới họ việc gì, luôn luôn họ giẫy nẩy lên trả lời là bận lắm, bận
lắm; Biết họ bận gì không? Họ bận kiếm nhiều tiền để mua nhà, mua xe,
chứng tỏ sự thành đạt của mình với chung quanh. Để tỏ ra là cha mẹ có
trách nhiệm, họ luôn luôn bận lo cho tương lai học hành của con cái,
thúc đẩy con học những ngành yên ấm mà kiếm được nhiều tiền chứ không
tạo cho chúng tinh thần xã hội, góp phần xây dựng đất nước… Họ lúc nào
cũng bận quây quần với vợ con, bận tụm đám bạn bè vui chơi!!! Người Việt
luôn nặng tình cảm, đôi khi đến độ che mờ lý trí.
Chúng ta có được tinh thần gia đình thương yêu, đùm bọc khá cao,
nhưng qua những cuộc đổi đời mới đây, một số gia đình cũng bắt đầu tan
nát. Tinh thần hiếu khách, dù là nhà nghèo, nhưng hầu hết người Việt có
gì cũng sẵn sàng đem ra cho khách dùng.
Người Việt có những tính xấu gì? Có thể nói là thiếu ý chí, thiếu
sáng tạo, thiếu tinh thần khoa học, thiếu nghiên cứu, thiếu mạo hiểm,
thiếu tầm nhìn xa, nói dối quanh, ít nhận lỗi, thiếu trật tự, thiếu
nguyên tắc, thiếu tôn trọng của công, ăn cắp vặt, tự cao, tự ty, ỷ lại,
thù dai, nặng mê tín, mau chán, thiếu tinh thần dân chủ vì độc đoán ít
dung hợp ý kiến người khác, lúc nào cũng có cả trăm lý do để trễ hoặc
không giữ lời hứa, nặng tình cảm mà thiếu lý trí, tinh thần địa phương,
tôn giáo… Nhưng đáng kể là thói ích kỷ và nhất là đố kỵ làm trầm trọng
thêm sự chia rẽ, đó là những cố tật lớn nhất đã làm cho người Việt không
đoàn kết, hợp quần, tiến nhanh lên được. Xin hiểu cho là cà một dân tộc
thì có người nay người kia, nên nói như thế không có nghĩa mọi người
như vậy và một người đồng thời có tất cả những tính xấu ấy cùng lúc.
Tại sao trong khi hầu hết người Nhật và Hoa thường tìm đến cộng đồng
của họ thì có một số khá nhiều người Việt tìm cách xa lánh nếu không
muốn nói là sợ chính cộng đồng của mình (trừ khi gặp khó khăn cần giúp
đỡ)?
Chúng ta không thể thay đổi truyền thuyết chia ly giữa Lạc Long Quân
và bà Âu Cơ, hẹn khi cần mới gọi nhau hợp sức. Tức là bình thường thì
chia rẽ, chỉ khi không sống được mới đoàn kết, rồi lại chia rẽ. Nhưng
chúng ta, bằng lòng thành và ý chí phải vượt qua “định mệnh” không hay
này.
Về bản thân người Việt, thân hình nhỏ bé, tuổi thọ thấp, sức lực kém,
không bền bỉ, mà làm việc lại hay qua loa, tắc trách, đại khái nếu
không nói là cẩu thả, nên nói chung năng suất kém.
Chúng ta thử nhìn xem, trong bất cứ một nhà ăn quốc tế như ở các
trường Đại học có nhiều nhóm người thuộc nhiều nước thì nhóm nào nhỏ
người nhất, lộn xộn và ồn ào nhất có nhiều phần chắc đó là nhóm người
Việt. Nhóm này còn thêm cái tật hút thuốc, xả rác khá bừa bãi nữa.
Nay đã là đầu thế kỷ 21, thử nhìn việc lưu thông ở các thành phố lớn
Việt Nam xem. Thật là loạn không đâu bằng. Người ngoại quốc nào đến Việt
Nam cũng sợ khi phải hòa mình vào dòng xe cộ đó, và nhất là khi băng
qua đường. Tỷ lệ tai nạn xẩy ra rất cao, ai cũng ta thán, thế mà bao năm
qua vẫn mạnh ai nấy chạy, mạnh ai nấy đi. Những ngã năm, ngã bảy xe
đông nghẹt mà hầu như không chia làn đường, nhiều nơi không có bệ tròn
để đi vòng, không cảnh sát hướng dẫn lưu thông, Từ mọi phía xe cứ đổ dồn
thẳng vào rồi mạnh ai người nấy tìm đường tiến lên. Đã cấm đốt pháo
được mà sao tệ nạn lưu thông đầy rẫy, mỗi một chuyện cỡi xe gắn máy phải
đội nón an toàn đã bao năm qua vẫn chưa giải quyết được. Sống trong xã
hội mà dường như có rất đông người Việt hầu như không muốn bất cứ một
luật lệ nhỏ nào ràng buộc mình. Cứ làm đại, làm càn rồi tới đâu hay tới
đó!?
Tôi vẫn nghĩ, một dân tộc có văn hóa cao, thực sự hùng mạnh không thể nào nẩy sinh ra lãnh đạo tồi và chỉ biết xâu xé nhau.
Chính tính xấu chung của người Việt mới nẩy sinh ra lãnh đạo tồi và
chia rẽ mà sinh ra chiến tranh, chiến tranh mới đào sâu thêm hố chia rẽ
và làm lụn bại dân tộc. Thất phu hữu trách mà, vận nước hôm nay là trách
nhiệm chung của mọi người, không chỉ có người lãnh đạo mà người dân
cũng chung trách nhiệm.
Thử nhìn các lãnh vực văn, thơ, nhạc của chúng ta mà xem, đâu đâu
cũng than mây khóc gió là chính. Đồng ý là có nhiều chuyện buồn nên sáng
tác nội dung buồn, nhưng buồn mãi vậy ích lợi gì, sao không tìm cách
giải quyết cái buồn. Có biết đâu những tư tưởng yếm thế đó càng làm cho
tình hình xấu thêm. Nếu có tư tưởng nào tích cực thì muôn đời vẫn chỉ
thuần là tư tưởng, vì chính tác giả của tư tưởng ấy chỉ viết hay nói ra
cho sướng, nói ra để lấy tiếng với đời, chứ chính họ không có trách
nhiệm thực thi.
Những gì cụ Phan Bội Châu báo động, kêu than trong cuốn “Tự Thán” đã gần một thế kỷ qua mà như đang xẩy ra quanh đây thôi.
Nếu chúng ta không có can đảm trị căn bệnh ngàn năm của mình thì dù
có hết chiến tranh, dân Việt vẫn mãi mãi khó mà vươn lên được. Chí sĩ
Phan Bội Châu đã hy sinh cả cuộc đời vì nước, vào sinh ra tử không tiếc
thân, thế mà trong cuốn “Tự Phán”, cụ đã thẳng thắn nhận đủ thứ lỗi về
phần mình. Cụ hối hận nhất là không đủ tri thức về ngoại ngữ và tình
hình thế giới. Nhưng trong đó, cụ cũng không quên nêu lên một số khuyết
điểm chính của người mình thời đó. Như người lãnh đạo không lo cứu nước,
dân không lo việc nước. Chỉ tranh thắng với nhau trên bàn cờ, hay cốc
rượu, mà bỏ mặc vận nước cho ngoại xâm giày xéo…
Ai cũng biết, Nhật Bản là một đảo quốc, đất hẹp, dân đông, nhưng
người Nhật đã khéo léo thu thập tinh hoa thế giới để bồi đắp quê hương
mình trở thành một cường quốc, đôi khi vượt qua cả những nước bậc thầy
của họ trước đó. Thật là hiện tượng hiếm có, không mấy dân tộc nào làm
được. Nhật Bản có thể ví như một nhà nghèo mà đông con, thế mà đã nuôi
được cho tất cả các con ăn học thành tài. Nên đây thật là tấm gương lớn
cho người Việt chúng ta học hỏi vậy.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, Việt Nam và Nhật Bản thời cận đại và hiện đại đã có những chọn lựa hướng đi khác nhau.
Khi Pháp đòi Việt Nam mở cửa và đe dọa bằng cách bắn phá đồn Đà Nẵng
năm 1856, Việt Nam đã chủ trương bế môn tỏa cảng. Thế nên năm 1858, Pháp
đem 14 tàu chiến và 3.000 lính đến bắn tan đồn lũy Đà Nẵng. Phía Việt
Nam chống cự đến cùng, để rồi bị thua và toàn quốc bị đô hộ 80 năm.
Chúng ta có tính can trường và bất khuất, nhưng thiếu khôn ngoan về một
tầm nhìn xa cho đất nước chăng? Đặc biệt Việt Nam hầu như chỉ dựa vào
một cường quốc, khi sợ nước nào thì chỉ dựa theo nước đó, thiếu tầm nhìn
toàn diện.
Thật vậy, khi thấy Pháp mạnh thì bỏ Trung Hoa theo Pháp, rồi theo
Nhật Bản, theo Hoa Kỳ hay Liên Xô. Theo đuổi chính sách như vậy, dễ bị
một cường quốc lấn át và khi các cường quốc này yếu đi thì hoang mang,
không biết trông vào đâu. Sau Thế chiến Thứ II, thế giới có phong trào
giải thực, hàng chục quốc gia được độc lập một cách dễ dàng, riêng một
số nhà lãnh đạo Việt Nam chọn con đường chiến tranh, hy sinh khoảng 4
triệu người và 30 năm chiến tranh. Điều này đã khiến quốc gia bị tụt
hậu, trở thành chậm tiến và nhất là phân hóa, chưa biết bao giờ mới hàn
gắn được.
Tại sao Việt Nam ở bao lơn Thái Bình Dương, vị trí địa lý chính trị
cực kỳ quan trọng như vậy mà chỉ trở thành mục tiêu cho các đế quốc xâm
lăng, còn không học hỏi để tự vươn lên được? Tại sao các đế quốc nhìn ra
vị thế quan trọng của Việt Nam mà chính người Việt lại không nhìn ra và
tự tạo cho mình một vị thế tương xứng như vậy? Tại sao người Việt đã
đầu tư quá nhiều vào chiến tranh mà chúng ta vẫn thiếu hẳn một đường
hướng xây dựng, phát triển quốc gia thích hợp? Với lối phát triển quốc
gia trong nhiều thế kỷ qua, bao giờ Việt Nam mới theo kịp các nước trung
bình trên thế giới, tức ngang với tầm vóc đáng lẽ phải có về dân số và
diện tích của Việt Nam?
Trong lúc đó, năm 1853, khi bị Hoa Kỳ uy hiếp, Nhật Bản cắn răng chịu
nhục, quyết định bỏ chính sách bế môn tỏa cảng. Nhưng họ mở rộng ngoại
giao, không chỉ với Hoa Kỳ mà với cả ngũ cường, thêm Anh, Pháp, Nga,
Đức… mặt khác, họ cố gắng học hỏi ở các nước ấy, để 30, 40 năm sau vươn
lên ngang hàng. Nhưng Nhật đã bắt chước các đế quốc, đi vào con đường
chiến tranh sai lầm, góp phần gây nên Thế chiến Thứ II, hy sinh khoảng
3,1 triệu người và đất nước tan hoang. Sau Thế chiến Thứ II, Nhật Bản
đứng trước một tương lai cực kỳ đen tối chưa từng có. Nhưng họ đã chọn
con đường xây dựng quốc gia bằng hòa bình, cố gắng làm việc, chỉ 25 năm
sau, Nhật Bản lại trở thành cường quốc.
Giờ đây, vận nước vẫn còn lênh đênh, mà người lãnh đạo lẫn người dân,
nhiều người vẫn như xưa, chưa thức tỉnh. Đặc biệt, nay có cả mấy triệu
người được ra nước ngoài, tri thức thăng tiến bội phần, nhưng chỉ có một
phần nhỏ quan tâm tới cộng đồng và đất nước, còn phần lớn mạnh ai nấy
lo làm giàu cá nhân…
Vài năm trước, tôi có được đọc trong một cuốn sách, đại ý thuật lại
lời một người trí thức Nhật với một người Việt ở Việt Nam ngay sau khi
Thế chiến Thứ II vừa chấm dứt năm 1945. Người Nhật ấy nói rằng, vì thua
trận, từ nay đất nước Nhật Bản bước vào thời kỳ đen tối, còn Việt Nam sẽ
thoát khỏi nạn thực dân, được độc lập và tương lai sáng lạn. Nghĩ vậy,
thế nhưng người Nhật đã cố gắng phục hưng đất nước một cách nhanh chóng.
Trong khi đó, tình hình Việt Nam đã không diễn biến như hoàn cảnh thuận
lợi cho phép.
Tại sao có điều nghịch lý là sách giáo khoa Nhật Bản viết nước Nhật
vốn “rất nghèo tài nguyên”, mà nay người Nhật xây dựng thành “giàu có”,
còn sách giáo khoa Việt Nam có lúc viết nước Việt vốn “rừng vàng biển
bạc” mà lại hóa ra “nghèo nàn”? Tại sao người Việt chỉ biết đem tài
nguyên sẵn có và nông phẩm là thứ đơn giản và rẻ nhất đi bán? Dù ai cũng
biết đây là thứ kinh tế mới chỉ ngang tầm thời Trung cổ.
Ngay nước gần chúng ta như Thái Lan cũng ở tình trạng tương tự, nhưng
khéo ngoại giao hơn, không tốn xương máu mà vẫn giữ được hòa bình để
phát triển. Do đó, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là không chỉ thu học kỹ
thuật của người, mà cần để ý đến văn hóa, là mặt tinh hoa tạo nên tinh
thần người Nhật hay người Đức. Có tinh thần mạnh thì như họ, dù thua Thế
chiến Thứ II, cũng nhanh chóng vươn lên. Tinh thần yếu thì dù đất nước
có giàu có cũng sẽ bị lụn bại đi như nhiều đế quốc trước đây trong lịch
sử.
Vậy người Việt bị thua kém, tụt hậu vì những khâu nào? Tại sao đa số
người Việt mua thực phẩm là món ăn vật chất hàng ngày, có thể mua nhạc
hàng tháng để giải trí mà có khi cả năm mới mua một cuốn sách là món ăn
tinh thần? Tại sao, năm 2007, người Việt dù có 3 triệu ở hải ngoại hay
85 triệu ở quốc nội, mỗi tựa sách (đầu sách) cũng chỉ in trung bình
khoảng 1.000 cuốn? Như vậy người Việt có thực sự chăm tìm tòi, học hỏi
không? Nếu bảo rằng sách đắt thì số người Việt tới thư viện sao cũng
không cao.
Nói chung, không có dân tộc nào tiến mạnh mà sách vở lại nghèo nàn.
Bởi chính sách vở là kho kiến thức, làm nền tảng để phát triển. Người
Nhật tiến mạnh được là nhờ họ biết tích lũy kinh nghiệm. Người đi trước
khi học hỏi, họ ghi chép rất cẩn thận, sau này nhiều người trong số đó
viết sách để lại cho người đi sau và cứ thế. Có những người Việt giỏi,
nhưng không chịu khó viết sách để lại, nếu người ấy mất đi thì bao nhiêu
kinh nghiệm tích lũy hàng mấy chục năm cũng mất theo luôn, thật là uổng
phí. Hơn nữa, ai cũng rõ, nếu hiểu biết chỉ được thu thập thuần bằng
kinh nghiệm chưa hẳn đã là chính xác và phổ quát, lúc viết sách, người
viết sẽ phải tham khảo rất nhiều, khi đó, từ các suy nghĩ cho tới dữ
kiện mới dần dần được hoàn chỉnh hơn.
Tại sao người Việt ở cả trong và ngoài nước được kể là học khá, nhất
là về toán, mà không tìm ra một công thức hay có được một phát minh thực
dụng đáng kể nào? Tại sao lúc nào cũng đầy người tụ ở quán cà phê và
hiệu ăn mà không hề nghe có lấy được tên một nhà thám hiểm Việt Nam nào?
Tại sao chúng ta thiếu hẳn óc tìm tòi, mạo hiểm, nhẫn nại và cố gắng?
Người ngoại quốc nào nghe người Việt nói cũng thấy lạ, thấy hay, vì
líu lo như chim, âm thanh trầm bổng như có nhạc. Bởi tiếng Việt có
khoảng 15.000 âm với 6 dấu thinh/giọng, lên xuống như “sắc, huyền”, uốn
éo như “hỏi, ngã”, rung động như “r”… thế nhưng, đa số người Việt không
biết gì về nhạc lý cả. Trong khi tiếng Nhật rất nghèo nàn về âm, chỉ có
120 âm, mà đa số người Nhật rất giỏi nhạc, có nhiều nhạc trưởng hòa tấu
hàng quốc tế, còn đi sửa các dàn organ cho cả Âu châu… Người Việt hầu
hết chỉ biết mua nhạc cụ chơi, tới khi hỏng thì chịu, thấy tình trạng
bết bát quá, chính người Nhật phải qua sửa giúp nhạc cụ của dàn nhạc
giao hưởng Việt Nam khoảng đầu thập niên 90.
Trong tiến trình phát triển quốc gia, cụ thể là trên bình diện kinh
tế, từ khâu đầu tư, tụ vốn, lập công ty, khai thác nguyên liệu, nhiên
liệu, nghiên cứu, sản xuất, cải tiến, quản lý phẩm chất, quản lý tài
chính, quảng cáo, buôn bán, phân phối, bảo trì, tái biến chế, bảo vệ môi
sinh… Tất nhiên làm ăn cá thể thì người Việt thường chỉ mạnh ở khâu
buôn bán nhỏ hoặc kinh doanh hiệu ăn lấy công làm lời.
Ngay khâu buôn bán, người bán thường chú trọng mua hàng ngoại hạng
nhất về bán kiếm lời và người tiêu dùng cũng lo bỏ ra thật nhiều tiền
tìm mua hàng ngoại hạng nhất để khoe mà nhiều khi không biết dùng hoặc
không cần dùng tới! Tại sao lại chuộng “hàng ngoại” đến như vậy? Hàng
hóa ở Việt Nam ngày nay khá nhiều, nhưng người Việt không tự sản xuất
lấy được khoảng 10% trong cấu thành sản phẩm đó. “Sản xuất” nếu có,
“hàng nội” nếu có, thực ra chỉ là đốt giai đoạn, dùng máy ngoại quốc rồi
nhập vật liệu và làm gia công. Sau này, khi máy hư hỏng thì lại mua máy
mới, không dần dần tự chế máy thay thế như người Nhật hay người Hoa
được. Cạnh tranh trong thương trường, người Việt thường tìm cách hạ
nhau, coi thành công của người khác là thiệt hại của mình; như bày cua
trong rọ, cứ kẹp nhau để rồi kết quả là không con nào ra khỏi rọ được.
Người Mỹ có châm ngôn làm ăn đại ý rằng:
- “Cạnh tranh là tự cải tiến sản phẩm của mình chứ không phải bỏ thuốc độc vào hàng của người khác”.
Người Nhật thì chủ trương:
- “Khách là nhất. Khách nuôi nhân viên chứ không phải chủ, phải làm sao cho vừa lòng khách”.
Sự phồn vinh rất “giả tạo” hiện nay ở Việt Nam là do sự cởi mở về
kinh tế, nhưng phần lớn là do tiền từ bên ngoài. Tới năm 2007, trong hơn
30 năm qua, Việt kiều gởi về khoảng 70 đến 80 tỷ Mỹ kim, cộng thêm một
số tiền đầu tư trực tiếp và gián tiếp của ngoại quốc 100 tỷ Mỹ kim
(trong các công trình hợp doanh, phía đầu tư của Viện Nam chỉ chiếm
khoảng 10% số này) và viện trợ ODA khoảng 20 tỷ. Với số tiền khổng lồ
khoảng 200 tỷ đó chưa kể Tổng sản lượng quốc dân (GDP) khoảng 500 tỷ do
người Việt làm ra trong thời gian này, nếu có chính sách giáo dục, kinh
tế tốt hơn và nhất là không bị quốc nạn tham nhũng thì mức sống của
người dân có lẽ đã gấp hai, gấp ba lần hiện nay, mức chênh lệch lợi tức
giữa người thành thị và nông thôn sẽ không quá xa. Ở hải ngoại cũng vậy,
với nhà cửa rộng lớn, xe hơi sang trọng tất nhiên do nhiều nỗ lực cá
nhân, nhưng yếu tố chính cũng là do may mắn từ môi trường thuận tiện sẵn
có, như thể “đẻ bọc điều, chuột sa hũ gạo”. Chứ xét về bản chất, không
khác với người trong nước.
Phải chăng các điều trên chỉ là những câu hỏi luôn làm trăn trở, bứt
rứt một số rất ít những người Việt có tâm huyết với sự tồn vong của quốc
gia, dân tộc. Phải chăng còn đại đa số thì không quan tâm và bằng lòng
với công việc buôn bán nhỏ hay đi làm thuê hiện tại?
Vì kiếm thật nhiều tiền cho mình và gia đình là quá đủ và hết thì giờ
để nghĩ và làm thêm bất cứ chuyện gì khác? Thử hỏi như vậy Việt Nam sẽ
đi về đâu? Tất nhiên, đã là con người thì dân tộc nào cũng có đủ các
tính tốt và xấu, nhưng người Việt dường như bị nhiễm nhiều tính xấu ở
mức độ rất trầm trọng.
psonkhanh
Re: Chúng ta còn thua kém nhiều dân tộc khác trên thế giới
[quote=Khách]
- Khổ vì bạn, khốn nạn vì đồng hương
- Sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi
- Lời nói gió bay, đồng tiền đọng lại
- Ăn xó bếp, ị đống gio
- Thật thà ăn cháo, bố láo ăn cơm
- Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt
- Đấu tranh = tránh đâu
- Đồng tiền là tiên là phật
- Không tiền lên tiên cũng khổ, có tiền xuống mộ cũng sang
- Tin bạn mất vợ
- Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa / Thì phen này không biết dựa vào đâu
- Ra đi phản động vượt biên / Trở về có tiền khúc ruột yêu thương
- Đầu tiên = Tiền đâu
- Được làm vua, thua làm giặc
- Tre già xúm xít vây quanh / Măng non chẳng chột cũng thành cong queo
- Lá vàng cố thủ trên cây / Lá xanh ngắc ngoải rụng thay lá vàng
- Một miếng giữa đàng bằng một sàng xó bếp
- Áo gấm về làng
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy
- Trâu chậm uống nước đục
- Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn [quote]
No comments:
Post a Comment